Home
» Thư viện văn xuôi
» Mai An Nguyễn Anh Tuấn: Cần làm gì để chấm dứt những bài học văn trống rỗng, vô vị?
Mai An Nguyễn Anh Tuấn: Cần làm gì để chấm dứt những bài học văn trống rỗng, vô vị?
Thứ Hai, 3 tháng 7, 2017
Trước đây,
khi còn là một giáo viên văn, tôi đã có dịp dự một số giờ văn ở cấp hai, cấp ba
mà sau đó, học sinh không được thêm được một chút gì ngoài những kiến thức chết
và mớ từ rỗng; những giờ văn kiểu đó quả đã trở thành một gánh nặng khủng khiếp
đối với học trò. Không ngờ, tới hôm nay thực trạng đó đã thành phổ biến trong
việc Dạy và Học văn, và đã tới mức thậm SOS!
Thông tin cá nhân: (VanDanViet) Tác giả: Đạo diễn điện ảnh Nguyễn Anh Tuấn
Bút danh khác Nguyễn Yên Thế
CẦN LÀM GÌ ĐỂ CHẤM DỨT NHỮNG BÀI HỌC VĂN TRỐNG RỖNG, VÔ VỊ?
Nhân một năm học mới sắp bắt đầu
***
Trước đây, khi còn là một giáo
viên văn, tôi đã có dịp dự một số giờ văn ở cấp hai, cấp
ba mà
sau đó, học sinh không được thêm được một chút
gì ngoài những kiến thức chết và mớ từ rỗng; những
giờ văn kiểu đó
quả đã
trở thành một gánh nặng khủng khiếp đối với học trò. Không ngờ, tới hôm
nay thực trạng đó đã thành phổ biến trong việc Dạy và Học văn, và đã tới mức thậm SOS!
Có những điều được thừa nhận ngoài đời một cách
hiển nhiên, nhưng trong nhà trường, chúng
cần được nhìn nhận, phân tích như một cái
gì mới mẻ trước khi đi tới một sự khẳng định rứt khoát có sức lay động lý
trí và tình cảm. Giảng dạy văn học, theo tôi thực chất là
công việc tích lũy tâm hồn và trí tuệ cho học sinh thông
qua những quá trình chuyển vận phức tạp, tinh tế
của đời sống được biểu hiện trong văn học, thông qua đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ. Người thầy dạy văn
lắng sâu
vào quá trình nhận thức và mỹ cảm để có thể dẫn dắt chúng
một cách nghệ thuật nhất trong tâm hồn háo
hức của học sinh. Và để làm được điều đó,
trong các vốn liếng cần thiết, vốn liếng tâm hồn và
tư tưởng của ông thầy dạy văn là quan trọng hơn cả. "Kiến thức chưa phải là tư tưởng" (Êchkecman)(1). Thật vậy, mọi tri thức được tích lũy sẽ trở nên tủn mủn, nặng nề, vô
ích, nếu không được lên kết, hệ thống lại, được đốt cháy lên bởi một năng lượng tâm
hồn và tư tưởng cần thiết! Nếu như
việc sáng
tác văn học nghệ thuật đi theo quy luật vĩnh cửu là "đốt cháy
trí tuệ thành trái tim" thì việc giảng dạy và
học tập văn học trong nhà trường cũng không
thể đi ngược quy luật đó! Ở đây, người thầy dạy văn đích
thực đã vô tình lặp lại quá trình tâm lý của người nghệ sĩ ngôn
từ khi sáng tạo tác phẩm: từ vốn sống được nung nấu bằng tình yêu cháy bỏng, trải qua lao động nghệ thuật gian khổ, tác phẩm được hình
thành trước hết như là kết quả của một sự
thôi
thúc nội tâm, đó là lý do tồn tại, lẽ sống còn của người nghệ sĩ. Nếu không cảm thông với tình
yêu nhân dân lao động của Nguyễn Du tới một mức nào đó thì làm sao có
thể giúp các em hình dung nổi cái
đặc sắc mà giản dị lạ lùng vượt khỏi văn chương thuần túy của bài thơ "Sở kiến hành"-
Những điều trông thấy trên đường đi: một ông
quan sứ từng dự tiệc linh đình thừa mứa mà lại biết nhìn
tới cảnh bốn mẹ con đi ăn xin dúm ró bên vệ đường, lại nhìn
sâu vào tận đáy giỏ tre của mẹ con họ, để
nhận ra trong đó
đựng "nắm rau cỏ lẫn tấm cám", rồi lại thấu hiểu được nỗi đau xót thầm kín của người mẹ khốn khổ: "Mẹ chết đâu có tiếc gì/
Vỗ về con thêm đứt ruột"... Tôi
chưa thể định nghĩa được thế nào là một giờ giảng văn tốt, nhưng nếu trong giờ giảng bài "Thúy Kiều bán
mình", các em học sinh, nhất là các em gái không thấy xúc
động sâu sắc đến ứa nước mắt xót thương và căm giận trước cảnh một người con gái trong trắng, thơ ngây,
dịu dàng bị đẩy ra trước một thằng
đàn ông
xa lạ thô bỉ, một mụ đàn bà tráo trở trơ trẽn, để chúng
xem xét như một món hàng, thì dù có phân tích kỹ lưỡng dài
dòng đến đâu cũng chỉ có thể coi là
một giờ giảng thất bại! Dạy ca dao cũ mà không làm cho các
em sống chan hòa trong những cảm xúc
tế nhị, tình yêu quê hương đất nước và tình yêu con người thấm vào
cây cỏ, trong cái khung cảnh bến đò,
cây đa, lũy tre làng, giọt mồ hôi thánh thót, cái
xót xa âm thầm của hạt mưa rào, của tiếng ếch kêu dưới vũng tre ngâm,
không làm cho các em cảm nhận được phần nào cái cuộc sống đã
làm bật lên những tiếng hát than thân, tiếng hát
tình nghĩa đó của người lao động Việt Nam thời xưa, làm sao có thể nói
được rằng những bài giảng văn đó thành công? Thiếu một độ rung cảm cần thiết của tâm hồn, những lời
diễn giảng thông
minh, lưu loát, bay bướm của người thầy dạy văn sẽ trật
khỏi bản chất hình
tượng tác phẩm, chúng sẽ trở nên
duy lý trần trụi hoặc bóng bẩy vô duyên! Khả năng rung động thẩm mỹ nhạy bén, sâu sắc giúp
cho người dạy văn thoát khỏi sự lặp lại một
cách
nhàm chán, tẻ nhạt những điều đã có sẵn nằm ở vỏ ngôn ngữ tác
phẩm, và làm cho sự phân tích các tín hiệu nghệ thuật của tác
phẩm không biến thành một sự liệt kê
khô khan, hình thức, mà xâu chuỗi chúng trong một thể thống nhất có
mối liên hệ vững chắc bên trong để dẫn học sinh thâm
nhập một cách trung thực vào các giá trị thẩm mỹ thật sự. Bản lĩnh tâm hồn của người thầy
dạy văn có
thể giúp học sinh tránh được những thị hiếu lệch lạc, tầm thường đang có nguy cơ thao túng tâm lý xã hội, và
đồng thời, điều này đặc biệt quan
trọng- giúp
nảy nở những nhu cầu thẩm mỹ lành mạnh, làm
dấy lên những "cơn lốc tuyệt
vời" trong tâm
hồn học sinh- theo cách nói của một nhà
nghiên cứu sư phạm Nga thế kỷ trước (2).
Chính sức mạnh tâm hồn người dạy văn sẽ phá vỡ sự ngăn cách
đáng lo ngại giữa học sinh và nhà văn - nhà giáo, và duy trì mối liên
hệ sâu
sắc giữa đối tượng giáo dục và tác phẩm. Chính
trong mối liên hệ này, dưới sự dẫn dắt khéo
léo và giàu cảm xúc của người thầy, những
thao tác
tư duy của học sinh sẽ được hình thành, phát triển. Bản lĩnh tâm
hồn giúp người thầy dạy văn rút bớt lời giảng rông
dài, hươu vượn, và để dành khoảng thời gian căng thẳng cho tư duy học sinh làm việc; và
như thế các
em có thể chạm tới được sợi dây thần kinh của tác phẩm. Không
cần buộc học sinh phải trả lời nhiều câu hỏi như hiện nay các
trường đang làm một cách hầu như chỉ là
hình thức, mà chính là ông thầy cần biết đặt
ra những vấn đề có
sức gợi tinh tế. Ví dụ, khi giảng bài thơ "Chạy Tây"
của Nguyễn Đình Chiểu, tới hai câu thực: "Bỏ nhà
lũ trẻ lơ xơ chạy/ Mất ổ bầy chim dáo dát bay", có
người giảng trước khi khai thác từ ngữ cụ thể, cách
đảo ngữ, đã đặt câu hỏi đầy sức gợi như sau: Hai câu thơ này miêu tả âm
thanh hay hình ảnh? Có điều gì đặc biệt ở đây?
Và các em đã nhận thấy, trong trạng thái cảm xúc
căng thẳng: đó là những hình ảnh của âm
thanh, của tấm lòng và trí tưởng tượng của nhà thơ. Nhưng đó cũng
là những hình ảnh cụ thể, có thực trong cuộc sống. Điều đặc biệt là: những hình ảnh chân
thực và đau xót này lại do một nhà thơ mù miêu tả. Những âm
thanh buồn thảm đã vang vọng trong tâm hồn ông;
chính con người mang trong lòng bao nỗi đau thời đại và
nhân thế cũng là con người biết lắng nghe cả
những tiếng động nhỏ bé
trong cuộc đời bằng tất cả trái tim thương cảm, giữa những tiếng động vỡ đất xé trời của cuộc xâm lược tàn
bạo.
Lâu nay, đã có không ít nhà giáo tâm huyết đã
tìm cách tháo gỡ cuộn chỉ rối khổng lồ của ngành giáo dục VN- trong đó
có thực trạng khốn khổ của Dạy văn- Học văn, tiêu biểu là
các nhà giáo của chương trình thực nghiệm giáo dục, và
tuy không được sự ủng hộ của Bộ Giáo dục - Đào tạo, hiệu quả đáng
khích lệ của chương trình (nổi bật là bộ sách
GK Cánh Buồm) cũng đã bắt đầu thấm sâu vào xã hội. Một trong những “nhà giáo thực nghiệm” đó là nhà giáo kỳ cựu Phạm Toàn,
với công trình đặc sắc “Công nghệ dạy văn”(3) mà theo tôi, rất cần làm sách gối đầu giường cho các
thầy cô giáo dạy văn các cấp để làm
cẩm nang đặng giúp cho các giờ học văn trống rỗng, vô vị sẽ dần biến mất...
Mặc dù còn nhiều vấn đề cộm cán chưa ngã ngũ về việc tuyển chọn thơ văn trong SGK, song sự thật là: có biết bao năng lượng quý
tiềm tàng trong những tác phẩm đã
được đưa vào giảng dạy. Thế mà phần nhiều chúng
vẫn ở trong tình trạng chỉ được đào xới ở lớp vỏ ngôn
ngữ, hoặc bị suy diễn, bị khái quát lên thành những vấn đề chính
trị-xã
hội thuần túy, trong khi người thầy dạy văn lẽ ra phải là "người nghệ sĩ thứ hai" của tác phẩm! Giờ giảng văn
nhiều năm qua đã
biến thành một thực thể nặng nề với
học sinh, nhất là
khi bị thầy cô giáo gọi lên nhắc lại những từ ngữ to tát do chính các thầy cô "sáng
tác" ra nhằm minh họa cho bài thơ bài văn!...
Nói rông dài là để trở lại một vấn đề "xưa như
trái đất": đó
là việc đào tạo ra ông thầy dạy văn, và
liền đó là sự tu dưỡng nghề nghiệp
của bản thân
ông thầy dạy văn. Thời học khoa văn đại học sư phạm Hà Nội, tôi
biết rõ có không ít bạn đồng môn chỉ biết đến những tác
phẩm văn học kinh điển qua lời kể của giáo sư hay được tóm
tắt trong giáo trình, và sau đó trong cuộc mưu sinh chật vật, chắc gì họ đã có dịp được đọc hết các
bộ tiểu thuyết Chiến tranh và Hòa bình, Những người khốn khổ, Vỡ mộng, Đỏ và Đen, Lâu đài, Tội ác
và Trừng phạt, v.v - những kiệt tác văn học thế giới mà
đã là học văn để ít nhất chỉ làm công việc dạy văn thì
không thể không đọc qua. Đấy là chưa kể tới biết bao sách
vở khác ngoài văn học thuộc các lĩnh vực mỹ học, lịch sử, triết học, văn hóa học... Còn giờ đây,
xem ra tình trạng còn tệ hại hơn rất nhiều. Học
sinh chán
sợ môn
văn đến cùng cực, không thèm ngó ngàng đến các
khoa nhân văn sau khi đã "sáng tác" ra những "quái
thai" trong các kỳ thi văn tốt nghiệp! Điều này trước hết phải cật vấn ông
thầy dạy văn, sau đó là hệ thống dạy văn ở
các Máy
cái đào tạo - các trường sư phạm hệ đại học
& trung học, và
cuối cùng là hệ thống quản lý giáo dục với những triết lý
giáo dục rối mù chỉ minh chứng rõ ràng cho sự Vô
trách nhiệm và sự Lạc hậu tới tận đáy!
(Đạo diễn Điện ảnh)
----
1. Theo A. Xâytlin- Lao động nhà văn. NXB Văn học, Hà
Nội, 1976
2. A. Nhikônxki- Phương pháp giảng dạy văn học ở trường phổ thông. NXB Giáo dục, HN, 1978
3. Phạm Toàn- Công nghệ dạy văn (Dẫn luận-Cơ sở tâm lý học)- NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000.
----
© Tác giả giữ bản quyền.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 03/7/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét