Home
» Lý luận phê bình
» Châu Thạch: Cảm nỗi non tan trong bài thơ “Trên Đỉnh Chon Von” của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Châu Thạch: Cảm nỗi non tan trong bài thơ “Trên Đỉnh Chon Von” của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Chủ Nhật, 2 tháng 7, 2017
Tôi đã
đọc hàng ngàn bài Đường thi và viết lời bình cũng gần trăm bài,
nhưng có lẽ “Trên Đỉnh Chon Von” của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt cho tôi
có cảm tưởng đây là một bài thơ đột phá cái võ bọc cứng nhắc của
thơ Đường. Cái võ bọc ấy khiến cho mỗi bài thơ Đường dường như một
đoá hoa không nở hết. Bài thơ cho tôi nhớ đến “Qua Đèo Ngang” của bà
Huyện Thanh Quan. Ở đây Hạ Thái Trần Quốc Phiệt cũng mang tâm trạng
ấy nhưng ông không đứng ở lưng đèo mà đứng tận trên đỉnh chon von của
một ngọn núi nơi miền giá lạnh. Chỉ cái đầu đề “Trên Đỉnh Chon Von”
đủ mở ra trước mắt ta một bầu trời bao la và một khung cảnh núi non
hùng vĩ. ...
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Châu Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
CẢM NỖI NON TAN TRONG BÀI THƠ "TRÊN ĐỈNH CHON VON"
của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt.
Châu Thạch
***
TRÊN ĐỈNH CHON VON
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
CẢM NỖI NON TAN TRONG BÀI THƠ "TRÊN ĐỈNH CHON VON"
của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt.
Châu Thạch
***
TRÊN ĐỈNH CHON VON
Thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
Ngồi trên
đỉnh núi ngắm vầng trăng
Đọc
những dòng thơ tặng chị Hằng
Thử
vạch mây xanh tìm ý mộng
Và đào
tuyết trắng kiếm mầm văn
Thấm
niềm thác vỡ than nhân thế
Cảm nỗi
non tan khóc đất bằng
Nơi cõi
chon von cao chất ngất
Trời
gần sao vẫn buốt hơn băng./.
Lời bình Châu
Thạch:
Tôi
đã đọc hàng ngàn bài Đường thi và viết lời bình cũng gần trăm bài,
nhưng có lẽ “Trên Đỉnh Chon Von” của Hạ Thái Trần Quốc Phiệt cho tôi
có cảm tưởng đây là một bài thơ đột phá cái võ bọc cứng nhắc của
thơ Đường. Cái võ bọc ấy khiến cho mỗi bài thơ Đường dường như một
đoá hoa không nở hết. Bài thơ cho tôi nhớ đến “Qua Đèo Ngang” của bà
Huyện Thanh Quan. Ở đây Hạ Thái Trần Quốc Phiệt cũng mang tâm trạng
ấy nhưng ông không đứng ở lưng đèo mà đứng tận trên đỉnh chon von của
một ngọn núi nơi miền giá lạnh. Chỉ cái đầu đề “Trên Đỉnh Chon Von”
đủ mở ra trước mắt ta một bầu trời bao la và một khung cảnh núi non
hùng vĩ. Tự điển giải thích “chon von” là trơ trọi trên cao, không có
chỗ dựa chắc chắn. Vậy thì người đứng trên đỉnh chon von chắc chắn
sẽ cảm thấy cô đơn, và cô đơn ấy sẽ trở nên cùng tận nếu chỉ đứng
một mình với đầy tâm trạng trong lòng.
Hạ
Thái Trần Quốc Phiệt ngồi trên đỉnh chon von để làm gì? Hãy đọc hai
câu thơ mở đầu sẽ hiểu:
Ngồi trên đỉnh núi ngắm vầng trăng
Đọc những dòng thơ tặng chị Hằng
Hai
câu thơ mở đầu cho ta tất cả sự sảng khoái của tâm hồn. Ta sẽ thấy
đẹp biết bao hình ảnh người thi sĩ ngồi giữa thiên nhiên hùng vĩ đọc
thơ cho trăng nghe. Thi sĩ đời nầy thường đọc thơ bên bàn rượu, trong
phòng trà, hay cùng lắm bên vỉa hè nào đó có xe cộ đi qua. Thi sĩ
đời nầy mấy ai lên núi cao đọc thơ? Đến các nhà tu hành cũng xuống
núi kiếm tiền huống chi là thi sĩ. Nhưng đọc hai câu thơ trên hồn ta
quay lại với sự lãng mạn của một thời xa xưa, thời các đạo sĩ, ẩn
sĩ còn trên núi cao, hay một thời “lên non tìm động hoa vàng’ của
Phạm Thiên Thư ở thế kỷ trước. Đọc hai câu thơ trên ta cũng cảm ơn
đời, vì sự xô bồ của đời nay chưa cuốn hút hết kẻ sĩ, vẫn còn nhà
thơ lên đỉnh chon von đọc thơ cùng trăng gió, nghĩa là đời nay không
hẳn chìm trong cõi tục, còn có kẻ muốn làm tiên.
Hạ
Thái Trần Quốc Phiệt muốn làm tiên, mà cao hơn nữa không phải một
thứ tiên biết biến hoá. Nhà thơ chỉ muốn làm một thứ tiên lạ kỳ,
một thứ tiên chỉ đào tuyết vạch mây để nhặt thơ. Lạ lùng thay, nhà
thơ tìm tài sản trong tuyết và mây, thứ tài sản quý giá mà nơi thấp
không có, phải lên đỉnh chon von mới tìm thấy được:
Thử vạch mây xanh tìm ý mộng
Và đào tuyết trắng kiếm mầm văn
Vế
luận của bài Đường thi cho ta thấy gì? Thấy nhà thơ lặn lội đi tìm
cái đẹp, đi tìm cái niềm vui thư thái cho tâm hồn. Lên cao để nhìn
thiên nhiên, tìm thơ trong thiên nhiên là tìm “nguồn trong trẻo vô biên”
là tìm “sợi dây quyến luyến” của Hàn Mạc Tử để hoà nhập vào chân
lý vô vi của Lão Tử. Trong mây có mộng, trong tuyết có mầm văn, phải
vạch ra và đào lên để tìm là một tư duy nẩy mầm thơ đẹp. Tác giả
đào cái ý đó , vạch cái tứ đó nằm tiềm tàn trong đầu mình cũng
quý hiếm chẳng khác chi mộng trong mây và mầm văn trong tuyết mà nhà
thơ đã khám phá tuyệt vời, đưa vào thơ tuyệt hảo.
Rồi
thì nhà thơ đi ngược lại phương pháp sáng tác Đường thi mà đời xưa
đã dạy cho thi sĩ đến đời nay. Đường thi ở câu luận là phải mở rộng
ý thơ, bàn sâu vào cái đầu đề đã đặt ở trên, nghĩa là phải làm cho
“Trên Đỉnh Chon Von” đầy thơ và đầy mộng hơn nữa như vế mở, vế trạng
của bài thơ vừa đề cập đến. Không! Nhà thơ Hạ Thái Trần Quốc Phiệt
không làm như thế, ông quay ngoắt 180 độ, đưa bài thơ từ sự an tịnh thư
thái tâm hồn bước qua vực thẳm, vực thẳm của nỗi đau buồn, khóc than
và rên xiết:
Thấm niềm thác vỡ than nhân thế
Cảm nỗi non tan khóc đất bằng
Ta
thấy rằng bà Huyện Thanh Quan qua Đèo Ngang, nhìn thấy cảnh khô cằn
của “cây chen đá/ Lá chen hoa/ Tiều vài chú/ rợ mấy nhà” thì chạnh
lòng “ nhớ nước/ Thương nhà” là đúng quy luật Đường thi. Ở đây Hạ
Thái đang “Ngắm vầng trăng” đọc thơ “tặng chị Hằng, đang “vạch mây tìm
mộng”, “đào tuyết kiếm mầm văn” thì bỗng nhiên bi luy “than nhân thế” và
“khóc đất bằng”. Như thế, bài thơ có nghịch lý hay chăng? Không. Bài
thơ không nghịch lý mà còn độc đáo vô cùng, mở ra một chân trời mới
cho phương pháp Đường thi với những ai cứ khư khư, câu nệ theo cái luật
từ thời xa xưa để lại. Đọc tiểu sử bà Huyện Thanh Quan, ta biết bà
có cái tâm trạng hoài Lê, nhưng cái tâm trạng của bà chỉ hướng về
quá khứ của cha ông mà bà không tường tận mấy. Do đó nổi hoài cảm
của bà nhẹ nhàng khơi dậy theo trình tự đối cảnh sinh tình. Hạ Thái
Trần Quốc Phiệt không thế, nhà thơ là người trong thời cuộc, vết
thương hằn sâu trong tim vỡ ra, rỉ máu bất kỳ lúc nào, kể cả khi đang
vui hay lúc mình đang thụ hưởng. Đứng trước trời bao la, núi non hùng
vĩ và sự cô đơn trên đỉnh chon von, tầm mắt nhà thơ phóng xa và quê
nhà bỗng hiện lên trong tâm tưởng. Cơn đau vụt đến, đất trời hiện hữu
không còn nữa, thay vào đó một đất trời xa xưa với thác vỡ, với non
tan hiện ra làm quặn thắt tâm hồn. Ai đã từng bỏ cha, bỏ mẹ, bỏ quê
hương đi lưu lạc xứ người có lẽ không lạ gì những phút đau thương như
thế. Hạ Thái Trần Quốc Phiệt làm thơ hiện thực, không phải thứ hiện
thực phơi bày lộ liểu sự kiện xảy ra, mà là diễn tả thực tế biến
chuyển hiện tại trong lòng mình, tài tình làm cho nỗi đau của chính
mình, của thế hệ mình hiện hữu giữa đất trời cao rộng, nên cũng cao
rộng như đất trời.
Vế
chót bài thơ tác giả cô đọng đất trời vào một điểm. Điểm ấy là
điểm đứng của tác giả mà cũng là điểm đau trong lòng mình:
Nơi cõi chon von cao chất ngất
Trời gần sao vẫn buốt hơn
băng./.
Phải
hiểu rằng tác giả đứng một mình. Một mình nơi cõi chon von cao chất
ngất để nghĩ về quê hương, về sơn hà thì cái chon von ấy, cái chất
ngất ấy không còn biết tới cảnh vật quanh mình, nó gậm nhấm ở trong
lòng mình. Trời gần mà không nóng, mà buốt hơn băng, chứng tỏ băng cũng
ở trong lòng mình. Hai câu thơ ném con người lên đỉnh cao, đỉnh cao của
cô đơn, đỉnh cao của bi thương, xoá trọn vầng trăng bàng bạc, xoá trọn
mây xanh và tuyết trắng quanh mình. Tất cả khung cảnh nên thơ giờ đây
đã biến đi đâu mất. Trong hồn tác giả hiện nay chỉ còn có quê hương,
quê hương với “non tan” và “thác vỡ”.
Người
trong thơ thì thế nhưng người đọc thơ thì khác. Người đọc thơ sẽ thấy
trăng, thấy mây, thấy núi và thấy một bóng người trên đỉnh chon von
như người vọng phu hoá đá. Hình tượng trong thơ sầu biết bao mà đẹp
biết bao. Hình tượng trong thơ là hình ảnh của triệu con người ra đi
bỏ nước, lên cao để vọng về cố quốc, khóc âm thầm cùng gió cùng
trăng cùng mây và nước mắt nuốt vào lòng sẽ buốt giá hơn băng.
Đây
là một bài Đường thi có chủ đề chính mà người viết xin đặt tên là
“Cảm nỗi non tan” (non là quê hương là xứ sở) mà nhà thơ đã mượn
cảnh “Trên núi chon von” để bày tỏ lòng mình. Bài thơ ngắn như một
miếng vải nhỏ nhưng lại có phép thuật trùm lên vạn vật, nơi có khung
cảnh nên thơ hùng vĩ và nơi có quê hương xa xôi với cảnh điêu tàn. Bài
thơ chính là nỗi lòng, là niềm đau có thực của tác giả được khéo
léo đem khóc ở một khung trời lãng mạn làm cho tiếng thơ bay trong
tuyết, bay trong trăng, bay trong bầu trời lồng lộng, làm cho nỗi đau
đó long lanh ánh sáng đẹp vô cùng./.
Châu Thạch
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 02/7/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 02/7/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét