Nhà thơ Nguyệt Lãng- Con người và bằng hữu – Thái Quốc Mưu (USA)
Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017
“Liêu,
Tôi biết mình không thể sống lâu hơn nữa, nên thư nầy đến Tiên Sinh để cám ơn
tri ngộ. Tình bạn của chúng ta là một nhân duyên tốt đẹp, thật đáng tiếc tôi
phải chia tay các anh ở giữa đoạn đường trần. Tôi hơi mệt... Xin vĩnh biệt từ
nay”.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Nguyệt Lãng
Tên thật Nguyễn Văn Thẩm
Ngày mất: 01/01/1914
_____
Nguyệt Lãng
NHÀ THƠ NGUYỆT LÃNG – CON NGƯỜI VÀ BẰNG HỮU
Thái Quốc Mưu
Tác giả Nguyệt Lãng
Tên thật Nguyễn Văn Thẩm
Ngày mất: 01/01/1914
_____
Nguyệt Lãng
NHÀ THƠ NGUYỆT LÃNG – CON NGƯỜI VÀ BẰNG HỮU
Thái Quốc Mưu
Tiểu sử:
Nhà thơ NGUYỆT LÃNG, tên thật Nguyễn Văn
Thẩm, sinh năm 1947, quê xã Vang Quới, Bình Đại, Bến Tre. Ông viết văn làm báo
và viết cổ nhạc từ năm 1969. Trước tháng Tư, 1975 có thơ, văn đăng trên các báo
ở Sàigòn.
Thuở nhỏ sống trong gia đình nghèo khó, ông
phải bỏ quê trôi dạt lên Sàigòn, làm đủ thứ nghề để mưu sinh và đi học. Ông là
người có chí lập thân. Năm 1968 bị động viên vào Trường Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức.
Sau khi ra trường vài năm, với tinh thần nghệ sĩ chân chính, ông cảm nghiệm ra
cuộc chiến “nồi da nấu thịt” hoàn toàn phi lý, bèn tự hủy hoại thân thể và được
giải ngũ. Và vẫn ở Sàigòn, lăn lóc trên trường chữ nghĩa, sống cầm hơi bằng
tiền nhuận bút.
Sau ngày 30-4-75, ông trở về quê ở xã Vang
Quới, Bình Đại, Bến Tre, nhưng bị địa phương nơi sanh ra mình không chấp nhận,
đuổi đi. Ông trở nên trôi nổi nhiều nơi, cuối cùng tìm được bến đỗ tại Xã Minh
Hương, Bình Phước, làm nghề rẫy là chính, viết là phụ. Vẫn sống trong nghèo khổ.
Nghĩa tình bằng hữu:
Ông là bạn chí thân của 3 anh em cùng sống
bằng nghề viết lách: Thái Quốc Mưu (Liêu Tiên Sinh), Thái Quốc Tế (Kha Tiệm
Ly), Thái Quốc Thế Nguyên (ALý Phượng Tuyền). Bốn người họ rất thân nhau.
Năm 2012, Thái Quốc Mưu từ Mỹ gọi về thăm
ông, Nguyệt Lãng cho biết ông đi khám bệnh mới phát hiện bị bệnh ung thư bao
thời kỳ cuối, phải truyền hóa chất 18 lần, nhưng vì nghèo khổ ông đành ôm bệnh
với những cơn đau xiết. Từ đó, Thái Quốc Mưu giúp đỡ ông triệt để, cầm cự được
sáu bảy lần vô hóa chất, biết mình không thể kéo dài cuộc sống. Lần cuối cùng
ông e-mail cho Thái Quốc Mưu: “Liêu, Tôi biết mình không thể sống lâu hơn
nữa, nên thư nầy đến Tiên Sinh để cám ơn tri ngộ. Tình bạn của chúng ta là một
nhân duyên tốt đẹp, thật đáng tiếc tôi phải chia tay các anh ở giữa đoạn đường
trần. Tôi hơi mệt... Xin vĩnh biệt từ nay”.
Thế rồi, hai hôm sau, Nguyệt Lãnh lên đường
về cõi vĩnh hằng lúc 2 giờ sáng ngày 1/1/2014 (nhằm ngày 1 tháng Chạp năm Quý
Tỵ) hưởng thọ 66 tuổi. Linh cữu được quàng tại nhà riêng số 57/4 xã Minh Hưng,
huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước, lễ an táng cử hành lúc 8 giờ 30 ngày 4/1/2014.
***
THƠ NGUYỆT
LÃNG
CHUYỆN CHIẾC CẦU.
(Trường ca)
Mấy mươi
năm lửng thửng sống bên cầu
Tôi chưa
thấy ai người đi qua đó
Nước vẫn
chảy dưới chân cầu… Và, gió…
Vẫn mơn
man đùa tay vịn trên cầu
Nghe nói
cầu được xây dựng rất lâu
Là công
sức của hai làng góp lại
Để ghi
nhớ một ngày trọng đại
Khi hai
làng hữu hảo kết thông gia
Nghe nói
từng sắm đến mấy kiệu hoa
Thủ chục
cặp xôi vò mươi mấy quảy
Rượu sẽ
chảy như chân cầu nước chảy
Liểng và
hoa như sắc bướm rợp trên cầu
Trai gái
làng hứa hẹn thắm duyên nhau
Hẹn đến
lúc cầu xây xong sẽ cưới
Ngày hợp
long có bao nhiêu là pháo
Bao gánh
xôi và rượu cúc, xôi vò…
Những nạ
dòng cứ vừa chạy vừa vo
Xăn vén
mãi cũng không thành móng lợn
Tóc dầu
lạc lắc lư đùi mông sấn
Mỡ gáy
cao còn bóng lưỡng môi trầu.
*
Đến một
hôm hàng Tổng luận công đầu
Hai Lý
trưởng tranh nhau ghè mắt liếc
Hai chiếc
ô thành côn quyền quyết liệt
Đóng cầu
đi! Thề đến chết cũng không nhìn…!
Lý trưởng
làng chém vào mép lan can
Dẹp, dẹp
hết chẳng thông gia thông giếc…
Nạ mông
sấn đem tre gai đóng cọc
Ở hai đầu
làm lô cốt. Cấm đi qua!
*
Hai làng
kia như quà quạ với cò
Kể từ đó
như trâu đen trâu trắng
Quyết
không trộn lẫn ngô cùng sắn
Trai làng
ta cứ cưới gái làng mình..!
Chỉ tội
cho người con gái đoan trinh
Chờ đợi
mãi hết năm cùng tháng tận
Gầy guộc
lắm như xác ve tàn lụn
Cũng
không sao quên được mối duyên đầu!
*
Mấy mươi
năm thùi thủi sống bên cầu
Lưng tôi
võng nhưng lưng cầu chưa võng
Và vẫn
thế gió trên cầu vẫn lộng
Chỉ lá
vàng chưa tiết đã xa nhau..!
Rồi một
hôm cầu gục xuống chân cầu
Xa trông
hệt như một người bó gối
Sông vẫn
cứ một dòng trôi tức tửi
Bao giờ
sông còn về được bên nguồn..!
*
Cả trăm
năm sừng sững đứng bên đường
Cây đa đỏ
giấu nỗi buồn không nói
Đã từ lâu
do đất lề quê thói
Tạo tính
câu mâu và cố chấp của làng
Cho nên
cầu vốn dĩ đễ đi sang
Mà rêu
mọc ngăn cách làng bao thuở
Cầu vẫn
đợi như một người góa bụa
Dựa chân
cầu nước mắt chảy như tuôn!
Bình Phước ngày thứ tư 15 tháng 8 năm
2012.
(Bài thơ vừa viết xong trước khi vào
bịnh viện)
Trên Báo
Bình Phước, Nhà văn XUÂN NAM VIẾT VỀ NGUYỆT LÃNG:
NGUYỆT LÃNG
CÒN LẠI VỚI THỜI GIAN
Nguyệt Lãng tên khai sinh là Nguyễn Văn
Thẩm. Anh sinh tại Bến Tre và lập nghiệp tại Bình Phước. Anh là hội viên Hội
Văn học - Nghệ thuật Bình Phước và là người cộng tác nhiều năm ở Báo Bình
Phước. Sau hai năm chống chọi với căn bệnh hiểm nghèo, ngày 1-1-2014, nhà thơ
Nguyệt Lãng đã ra đi để lại nỗi tiếc thương trong lòng bè bạn và những ai biết
đến thơ anh.
Nguyệt Lãng nổi danh với bài thơ “Rau đắng
đất” sáng tác năm 1972 và được nhạc sĩ Bắc Sơn phổ nhạc. Sáng tác của anh đi
sâu vào thân phận con người với phong cách chân thực, gần gũi, đồng cảm với
vùng quê hương sông nước miền Tây Nam bộ, được bạn đọc yêu thích, mến mộ.
Tuổi thơ của Nguyệt Lãng gắn với vùng sông
nước Bến Tre: “Tuổi thơ đi với bông bần/
Ước mơ tôi thả trắng ngần bến sông”. Cái nghiệp văn chương đã sớm kéo bước
chân Nguyệt Lãng phiêu bồng qua các miền quê. Anh đem theo khát vọng muốn thoát
ra khỏi cuộc sống tù túng. Cái khát vọng có chút phiêu lãng giang hồ.
Cái sâu lắng của Nguyệt Lãng là thấu hiểu
được khát vọng trong con người sống giữa sự tù túng. Đọc bài “Quê nghèo”, tôi
lại liên tưởng đến “Cánh đồng bất tận” của Nguyễn Ngọc Tư. Đó là thân phận
người nông dân nơi chốn bùn lầy nước đọng vẫn hằng khao khát một cuộc đổi đời.
Nói đến quê hương là nói đến mẹ. Mẹ là hình
ảnh hiển hiện trong tâm trí người đi xa. Người mẹ của Nguyệt Lãng cũng như bao
thân phận của người phụ nữ nông thôn trên đồng đất miền Tây. Họ phó mặc duyên
phận may rủi. Thân phận họ khác nào giọt mưa. Từ giọt “mưa sa” trong ca dao đến
giọt “mưa rụng” xuống “ao làng” của Nguyệt Lãng cho ta thấy nỗi buồn về số phận
người phụ nữ vẫn xuyên suốt qua mấy thế kỷ.
Người mẹ của Nguyệt Lãng trên cánh đồng
miền Tây hun hút mênh mang ấy vẫn ôm ấp những kỷ niệm về tình yêu. Nguyệt Lãng
đã lách vào nỗi niềm nhạy cảm nhất của người mẹ. Mẹ cũng như bao phụ nữ khác,
cũng có quyền được giữ riêng cho mình những kỷ niệm về tình yêu của một thời
con gái. Có lẽ chỉ ở vùng đất nơi có điệu hò phương Nam mới có cái nhìn thoáng
như vậy. Cái nhìn ấy lại được đưa vào văn chương, nó vượt qua rào cản và ảnh
hưởng của hàng ngàn năm phong kiến.
Nguyệt Lãng còn viết về người chị mười sáu
tuổi như cây cải “trổ ngồng”. Cha mẹ vội gả chồng nơi xa xứ. Còn chị thì “Như đọt mướp bỏ vòi bám giữ/ Câu ví dầu...
đừng gả con xa”. Cái hình ảnh người chị còn non như cái “vòi mướp” quấn lấy
cha mẹ. Và rồi cuối cùng cũng phải gỡ ra khỏi vòng tay cha mẹ để về nơi xứ
người.
Hình ảnh người chị lại xuất hiện trong bài
thơ “Rau đắng đất”. Bài thơ đã được âm nhạc chắp cánh và có sức lay động lan
tỏa qua nhiều thập kỷ. “Nhìn quãng đồng
xa một làn khói trắng/ Cũng bâng khuâng nhớ lắm quê mình/ Bỗng nghe thèm rau
đắng nấu canh!”.
Đọc “Rau đắng đất” ta liên tưởng đến “Bên
kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Hai bài thơ có sự gần gũi về giai điệu và cũng
là lối thơ tự sự. Nhưng Nguyệt Lãng gắn câu chuyện của mình với những cuộc đời
riêng, nỗi niềm riêng của người dân nơi vùng sông nước miền Tây Nam bộ.
Nguyệt Lãng còn nhiều bài thơ nói đến người
đến cảnh ở vùng đất Bến Tre quê hương anh và rộng ra cả vùng Nam bộ. Thơ Nguyệt
Lãng không kể lể, liệt kê. Anh cũng không làm cái việc ghi
chép lại
nét văn hóa, phong tục ở mỗi làng quê.
Mỗi bài thơ của Nguyệt Lãng đều chứa đựng
một tâm trạng, một nỗi niềm và có khi là một kiếp đời. Nguyệt Lãng đã đi sâu
vào thân phận con người với nỗi niềm day dứt trăn trở không nguôi.
Đóng góp của Nguyệt Lãng trong văn chương
chính là việc anh đi sâu vào thân phận con người, chia sẻ nỗi đau và khát vọng
của họ. Đặc biệt là thân phận người nông dân miền Tây sống giữa đồng đất mênh
mang với những trận lũ tràn bờ, những cuộc đời lênh đênh như cánh bèo trôi.
Nhưng trái tim thuần phác của họ luôn ấp ủ ước mơ, những hy vọng. Thơ Nguyệt
Lãng đưa tới một thông điệp đó là tình yêu quê hương và thôi thúc chúng ta giải
phóng con người khỏi cảnh đời tù túng.
Nguyệt Lãng đã ra đi! Bước chân “lãng tử”
đã dừng! Những sáng tác của anh cũng không nhiều nhưng sâu sắc. Đặc biệt tác
phẩm “Rau đắng đất” của anh vẫn còn xanh mãi trong lòng người dân đất Việt yêu
nước, thương quê.
Xuân Nam
***
VINH THÔNG
- NHÀ THƠ NGUYỆT LÃNG MỘT MÌNH QUA BẾN
Năm mới dương lịch 2014 về trong sự hân
hoan chờ đón của bao người, với biết bao hy vọng mới, niềm tin mới. Vậy mà khi
đó có một người thơ lặng lẽ từ giã cõi đời khi đất trời vừa bước sang một chu
kỳ mới chỉ được vài giờ. Nhà thơ Nguyệt Lãng đã ra đi ở tuổi 66, bình thản về
đất trong sự bất ngờ của biết bao bạn bè văn nghệ. Cuộc đời quả là vô thường,
có đó rồi mất đó, mới đây mà…
Ngày đầu tiên của năm dương lịch 2014, bận
một số công việc gia đình nên mãi đến tối tôi mới có thể online được, thật bất
ngờ khi hay tin nhà thơ Nguyệt Lãng từ trần lúc 2 giờ sáng ngày 1/1. Không muốn
tin vào mắt mình, tôi đã vội vã liên hệ một vài người bạn để xác nhận thông
tin, và đến khi đó, tôi đã thật sự không kìm nổi xúc động. Tính ra thì ông và
tôi cũng có nhiều kỷ niệm gắn bó cùng nhau, dẫu là chưa gặp mặt lần nào, nhưng
“văn kỳ thinh bất kiến kỳ hình”, phải chăng? Đến hôm nay tôi mới có thể viết
những dòng nầy cho ông, dù đã hơi trễ.
Nhà thơ Nguyệt Lãng tên thật là Nguyễn Văn
Thẩm, sinh năm 1947, quê ở Bến Tre. Ông bắt đầu cầm bút sáng tác từ năm 1969,
có nhiều có tác phẩm đăng rải rác trên báo báo và tạp chí ở Sài Gòn từ trước
1975. Ông là tác già bài thơ “Rau đắng đất” đã được nhạc sĩ Bắc Sơn phổ thành
ca khúc “Còn thương rau đắng mọc sau hè”. Tôi và nhà thơ Nguyệt Lãng quen biết
nhau qua một số trang văn nghệ online từ năm 2011. Sau đó có dịp in chung trong
nhiều tập sách, dần dần chú cháu quen biết và trao đổi qua email. Tôi đọc và
thích những vần thơ dung dị mà sâu sắc của ông từ dạo ấy: “chẳng còn ngăn kéo nào để giấu/ ta trút vào sông hết nỗi niềm/ có cả
hồn ta trong chén rượu/ cuối cùng tiễn biệt chuyến phà quen!” (Phà ơi xin
lỗi)
Cuối năm 2011 nhà thơ Nguyệt Lãng gửi tôi
bài thơ “Chút tình gửi thương Châu Phú” viết về quê hương tôi, bài thơ nầy có
lẽ nhà thơ đã viết từ lâu, trong một dịp nào đó về thăm Châu Phú (An Giang). Có
lẽ đây là một trong những bài thơ có nhiều kỷ niệm với tôi. Khi nhận được, tôi
đã xin phép ông gửi bài thơ cho tập san Văn nghệ Châu Phú của Hội VHNT Châu
Phú. Bài thơ được chọn đăng trong tập san số xuân Nhâm Thìn 2012.
“bao
đời qua,
con đường mòn thành quốc lộ
bến nước đã thành nỗi nhớ
cho người phiêu bạt tha phương!
những chiếc ghe bầu nằm đợi ăn hàng
cắm sào mơ ngủ
nước lớn ghe lui, nước ròng ngồi nhậu
nướng con khô trèn rủ bạn làm quen”
Sau đó, bài thơ được chọn ngâm trong đêm
thơ nhạc Nguyên Tiêu Châu Phú 2012. Tôi được Ban tổ chức phân công ngâm bài thơ
nầy, lần ấy cũng là lần đầu tiên tôi đứng trên sân khấu ngâm thơ trước công
chúng. Thế nên tôi đã cố gắng tập dượt rất kỹ trước đêm thơ, vậy mà khi lên trình
bày vẫn chưa thật sự thành công lắm, nhưng dầu sao cũng để lại một kỷ niệm khó
quên. Lúc ấy nhà thơ Nguyệt Lãng có dự định về thăm một số họ hàng ở Bến Tre và
Châu Đốc, tôi có lời mời ông tiện đường ghé ngang Châu Phú để dự đêm thơ, nhưng
cuối cùng ông bận một số việc ở Bến Tre nên không về kịp.
Năm 2012 tôi có thực hiện hai tuyển tập thơ
là “Cổ tích cánh đồng” viết về đồng bằng và “Chim én mai vàng” viết về mùa
xuân, có lời mời ông tham gia. Cả hai tập ông đều có gửi bài tham gia nhưng chỉ
khiêm tốn “xin nhận vài quyển sách làm kỷ niệm, còn lại thì cháu cho bạn bè ai
cũng được, chú già rồi giữ nhiều làm gì, cũng có dịp tặng ai đâu”. Giờ đọc lại
những bài thơ xuân của ông đăng trong tập thơ ngày cũ mà nhớ đến người thơ vừa
mới đi xa: “Chiều cuối năm Đồng Xoài hối
hả / Giành nhau đưa cái tết về nhà/ Chiều cuối năm có người hối hả/ Một mình
đem nỗi nhớ đi xa” (Đồng Xoài cuối năm).
Cũng trong năm ấy, nhà thơ Nguyệt Lãng phát
hiện mình mắc bệnh nan y. Gia đình đã rất khó khăn, chật vật xoay xở để chăm lo
cho bệnh tình của ông. Bạn bè, đồng nghiệp thường thăm hỏi và giúp đỡ. Sau một
thời gian điều trị, đến giữa năm 2013 bệnh tình của ông có phần thuyên giảm,
sức khỏe dần hồi phục. Ông có gọi điện cho tôi hỏi “miền Tây mùa nầy nước lên
chưa?” và nói rằng mình nhớ miền Tây mà không về được. Ông nói trong năm 2014
Hội VHNT Bình Phước sẽ đến thăm và học hỏi mô hình Hội VHNT cấp huyện ở Châu
Phú để triển khai thành lập các Hội VHNT cấp huyện cho tỉnh Bình Phước. Vậy mà
chưa thực hiện được chuyến về thăm Châu Phú thì ông đã ra đi. Vậy là ông đã hai
lần lỗi hẹn cùng Hội VHNT Châu Phú.
Sau đó gửi bài thơ “Cứ trách mùa lỗi hẹn”
có đề tặng tôi, trong thơ có nhắc đến những địa danh quê nhà quen thuộc của
tôi. “Từ lúc người đi biền biệt xứ/ Đã lâu không ghé Chóc Năng Gù/ Bỏ con
nước chảy qua Bình Mỹ . Cho nhạt hồng đôi má cù lao”
Có lẽ biết trước được mình không qua khỏi,
nhà thơ đã gửi bản thảo tập thơ “Ruộng ai người ấy đắp bờ” cho một số bạn bè
văn nghệ thân thiết và ngỏ ý hy vọng có một đơn vị nào đó có thể giúp mình xuất
bản tập thơ cuối đời. Nhưng ước nguyện đó đến nay vẫn chưa hoàn thành được, tác
giả của tập thơ đã nhắm mắt xuôi tay mà không kịp nhìn thấy đứa con tinh thần
cuối cùng của mình.
Nhà thơ Nguyệt Lãng đã từ giã chuyến rong
chơi văn chương, bỏ hết mọi ưu tư đời thường. Ra đi, phải chăng như những lời
thơ mà ông đã viết: “Tẩn ngẩn nhìn mùa xuân chợt biến / Khi đang còn cách một
bàn chân”, “ Chiều nay trở lại sông quê / Đò ngang một chuyến đi về một tôi”.
Dẫu là chưa gặp, nhưng dường như tình nghĩa đã đầy, hay tin ông ra đi làm sao
có thể kìm nổi xúc động, như vừa mất một người thân. Người thân ấy, lúc nào
cũng giản đơn, dung dị, khiêm nhường mà rất sâu sắc.
Và bây giờ thì ông có lẽ đã phiêu diêu cõi
bằng an nào đó. Đó là ở nơi mà: “chẳng có
ai chờ chẳng có ai đi/ một mình đưa mình qua bến”. Cúi đầu tiễn biệt ông,
nhà thơ Nguyệt Lãng!
Vĩnh Thông
***
Nhà thơ Phong Tâm đã viết - TIỄN
NGUYỆT LÃNG
***
Trăng tan
Sóng dạt
Bến bờ
mênh mang sóng
Hòa dòng
Cửu Long
Lục bình
tím thẳm
Xanh xanh
chìm
Phù sa về
lại biển đông
Đôi cánh
mỏng một vòng sương khói lạnh
Tiếng
chim trời Nguyệt Lãng bóng mây vương
Ừ! Đi đi
Hoàng hôn
đời người vẫn vậy
Chỉ có
một nơi về
Chỗ không
nhìn thấy
Không có
cuộc chia ly!
03.01.2014
Phong Tâm
***
CHÂU THẠCH – ĐỌC, MỘT MÌNH VÁ ÁO
của Nguyệt Lãng.
***
MỘT MÌNH VÁ ÁO
chiếc áo
một ngày không hẹn, rách.
vụng về
sợi chỉ mấy đường may
cây kim
sứt mũi đâm vào vải
những
tiếng buồn thiu giữa ngón tay!
con chim
bìm bịp gù trong lá
ai giấu
niềm đau ở cuối vườn
ta giấu
niềm đau nơi mảnh vá
mảnh vá
quàng như một vết thương!...
Nguyệt Lãng
Lời bình:
Có những bài thơ khi đọc xong, nếu trong ta
có vết thương lòng thì bài thơ hình như hàn gắn lại cho vơi bớt nỗi đau, nhưng
cũng có những bài thơ đọc xong, dầu trong ta không có vết thương nào cũng thấy
lòng nhói đau như có vết, còn nếu trong ta có vết thì bài thơ khơi thêm niềm
đau ấy âm ỷ trong lòng ta mãi miết. Cả hai lọai thơ ấy đều là những bài thơ hay
mà tác giả của nó phải là những thi sĩ tài hoa, đã từng sâu nhiệm trường đời.
Với tôi bài thơ “ Một mình vá áo” là bài thơ thuộc lọai thứ hai, nó đã hành hạ
tôi chẳng khác chi cây kim sứt mũi đâm vào vết thương mà tôi lầm rằng thời gian
đã làm liền da lại. Chỉ với câu thơ đầu tiên của “một mình vá áo” Nguyệt Lãng
đã đưa tôi vào cảm giác bất ngờ vì liên tưởng đến biết bao điều bất hạnh đột
xuất trong một đời người:
Chiếc áo một ngày không hẹn, rách.
Không hẹn, dấu phết, rách: Chữ “ rách” khác
chi một tai nạn ập xuống đầu, một biến cố đến
trong
giây phút mà con người không đóan trước. Tất nhiên chiếc áo không hẹn mà rách
là việc bình thường, nhưng ở đây còn có ngụ ý nói về một đổ vở xảy ra trong
cuộc đời luôn biến động.
Rồi thì tác giả làm gì với chiếc áo rách
của mình đây?:
Vụng về sợi chỉ mấy đường may
Áo rách thì bỏ đi và may áo mới. Áo rách mà
đem vá lại cho ta một hình ảnh rất buồn về sự gượng ép hàn gắn vết thương, về
cuộc sống nghèo nàn của chủ nó. Đã thế áo được vá lại một cách vụng về. Điều đó
nói lên chủ áo là người phong lưu chưa từng biết vá áo, nay phải gượng gạo vá
lại chiếc áo của mình nên đường may mới phải vụng về. Không nữa, thì cũng nói
lên người chủ áo cô đơn chẳng có một người nữ nào sống bên mình.
Hai câu thơ đầu chỉ là phát họa một bức
tranh.
Hai câu thơ sau mới là hòan thiện bức tranh
buồn vô hạn:
Cây kim sứt mũi đâm vào vải
Những tiếng buồn thiu giữa ngón tay
Không ai vá áo bằng cây kim sứt mũi, chỉ có
nhà thơ Nguyệt Lãng của chúng ta mới vá áo một cách tài tử như vậy mà thôi,
Kiểu vá áo nầy nếu không phải của anh chàng lè phè thì là của anh chàng đang sa
cơ lỡ vận, và hình ảnh vá áo kiểu nầy nếu không làm cho người ta cười thì làm
cho người ta khóc. Trong bài thơ nầy hình ảnh vá áo là hình ảnh làm cho người
ta khóc vì:
Những tiếng buồn thiu giữa ngón tay.
Tiếng của cây kim cụt đầu đâm vào vải là
tiếng kêu rất nhỏ. Những tiếng kêu rất nhỏ nhưng vào
thơ
Nguyệt Lãng thành tiếng dội u buồn, Điều kỳ lạ là những tiếng buồn ấy chỉ ở
giữa những ngón tay nhưng người đọc lại thấy rằng cả tác giả khi viết thơ và cả
mình khi đọc thơ đều có nỗi đau âm ỉ, kéo dài của những vết thương trong lòng
do cây kim cụt đầu, do đường may thô thiển của sợi chỉ gây nên.
Bốn câu thơ ở vế đầu là phần mở của bài
thơ, Phần mở chỉ giới thiệu cái hình ảnh còn lẻ loi trong góc tối, phát họa
niềm đau còn ẩn chứa trong lòng. Bài thơ không có vế thân bài, chỉ có phần kết
luận, và ở phần kết luận tác giả mở toang--6 cánh cửa để nỗi đau trong lòng
mình tràn ra trùm lên cảnh vật trong tiếng gù ấm ức của con chim bìm bịp ở cuối
vườn:
Con chim bìm bịp gù trong lá
Ai giấu niềm đau ở cuối vườn
Không mấy
ai từng nghe tiếng chim bìm bịp, nhưng đã nghe được thì không mấy ai cảm thấy
hài lòng, Chim bìm bịp không hót, chim bìm bịp gù, và tiếng gù như nỗi đau ẩn
chứa trong lòng, và nỗi đau ấy dầu ẩn chứa trong lòng nhưng âm thanh lại loan
ra như sóng, trùm niềm đau lên cây lá, trăng sao, xói niềm đau vào lòng người
nghe sao mà da diết quá. Tác giả tưởng rằng “ ai dấu niềm đau ở cuối vườn”
nhưng niềm đau ở cuối vườn không ai dấu, đó là niềm đau ở trong lòng tác giả,
nó đã thành ma nhập vào hồn tiếng gù của con chim bìm bịp. Hãy tưởng tượng
tiếng buồn đi trong đường chỉ và tiếng buồn vọng lên từ con chim gù trong lá.
Tiếng buồn nào lớn hơn? Tiếng buồn nào đau hơn? Và tiếng buồn nào sẽ làm ta rơi
lệ? Với tôi cả hai tiếng buồn đều như nhau, vì cả hai đều một thể, là nỗi khắc
khỏi của tâm hồn, là sự quặn thắt của con tim, là tâm tư sầu thảm của con người
vừa nghèo túng vừa cô đơn đang ngồi vá lại chiếc áo rách với cây kim đã bị gảy
đầu,với sợi chỉ chắc lượm được từ đâu đó.
Hai câu thơ cuối của bài thơ như sau:
Ta giấu niềm đau nơi mảnh vá
Mảnh vá quàng như một vết thương
Niềm đau làm sao giấu nơi mảnh vá được?
Bởi vì mảnh vá thể hiện niềm đau của tác
giả: vá một đường chỉ thì niềm đau còn ít, vá hai đường chỉ thì niềm đau tăng
lên, mà vá ba đường chỉ trở lên thì niềm đau vở òa đến lạnh cả không gian, làm
se thắt đến cả tiếng chim gù trong lá. Dưới con mắt tác giả mảnh vá được hình
dung như một vết thương, và một nghịch lý đã xảy ra giữa vết thương trên áo và
vết thương trong lòng tác giả. Vết thương trên áo thì được vá liền nhưng vết
thương trong lòng thì lại xé tọat thêm ra. Bởi vậy tác giả nói “ ta giấu niềm
đau trong mảnh vá” không phải là muốn nói niềm đau được vá lại mà là để ám chỉ
đến vết thường trong lòng giống như mảnh vá hằn lên trên vải, nó sẽ tồn tại và
nó chỉ rụi tàn khi nào thân xác như chiếc áo trở thành tro bụi.
Bài thơ “ Vá áo một mình” là một bài thơ cô
đọng và hàm xúc. Đó là một bài thơ ẩn dụ, dùng cây kim, mảnh vá để nói đến niềm
đau, sự ấm ức, nỗi khắc khỏi và tiếng kêu thương sâu kín trong tâm hồn ấy đã
làm cọng hưởng cả tiếng chim trời, cả cây lá ở cuối vườn kia. Đọc “ Một mình vá
áo” để ta cảm thấy cô đơn, để ta cảm thấy âm thầm đau đớn, và để ta cảm thấy cả
cõi lòng chùng xuống chịu đựng nỗi buồn ẩn chưa trong sợi chỉ, giữa ngón tay và
thóat xác thành tiếng gù của con chim bìm bịp, để ta và tác giả hòa nhập cùng
nhau mang nỗi buồn dài năm tháng ./.
***
AI MUA THƠ NGUYỆT LÃNG KHÔNG?
Theo như tôi được biết, trên đời này phàm
ai cầm bút làm thơ hay viết văn đều mong có ngày những bài viết của mình được
in thành sách. Nhưng có một người không giống thế, chẳng biết do không muốn in
hay là chẳng có tiền in?
Bất ngờ, anh gởi đến tôi tập bản thảo mỏng
(chừng vài mươi bài thơ); rao bán đứt bản quyền, chuyện lại càng hy hữu nếu
hiện tôi không sống trên đất Mỹ, mà đang ở trong nước thì chắc tôi cũng đồng
cảm mà bắt chước người xưa than câu văn chương hạ giới rẻ như
bèo; rằng nhà văn An-Nam khổ như chó!
Nhưng mình cũng không thể thấy lê
quên lựu mà không cảm thông với đồng nghiệp, anh em mình. Phải nói cho
tường tận sở dĩ nhà văn mình khổ, văn chương mình rẻ không phải vì mình có kiểu
làm khác người mà vì chính mình thường không trân trọng mình. (Ai cũng cho mình
hay nên không them đọc của người khác), thành thử ngay trong nước người viết
hầu như đông gấp nhiều lần người đọc, chỉ trừ những hiện tượng văn học (mà chắc
gì không do lăng-xê, thổi phồng?!)
Đến đây chắc mọi người xót ruột hỏi sao tôi
không nói ra tên nhà thơ “dở hơi” đó, thật ra anh này cũng không xa
lạ với chúng ta. Anh ta là Nguyệt Lãng, tác giả bài thơ “Rau Đắng Đất” mà nhạc
sĩ Bắc Sơn phổ thành bài ca “Còn Thương Rau Đắng Mọc Sau Hè” và
nhiều bài nữa mà các nhạc sĩ trong nước mượn đó chắp cánh cho ca khúc của mình.
Lần này anh rao bán bản quyền là những bài
thơ chưa bị “xâm hại” dù có nhiều bài được viết khá lâu. Đa số anh viết
về vùng quê sông nước với niềm hối hận xem mình là một “hột phù sa lạc loài”.
Thật vậy, vì anh gốc vốn đồng bằng mà phải lên núi mưu sinh! Có lẽ cũng chính
vì thế mà nỗi nhớ quê hương sông nước với những con đò, những phiên chợ nổi,
những buổi chướng lên, lũ về hay những cơn khát ngọt làm cho anh ray rứt không
nguôi…
Hãy nghe anh viết:
Tuổi thơ đi vớt bông bần,
Ước mơ tôi thả trắng ngần bến sông.
Ngày hai con nước lớn ròng
Lúc trơ bờ bãi lúc mông mênh tràn
… Hôm nay trở lại thăm quê
Đò ngang một chuyến đi về một tôi
Bâng khuâng ngồi vớt bông trôi
Vớt nhằm chiếc bóng mồ côi của mình
(Dòng sông tuổi thơ)
Hay:
Nửa đời đi lại bao phiên chợ
Chợ nổi qua rồi sóng chẳng qua
Khoác nước mà quai chèo vẫn tuột
Buồn tôi bẹo mãi có ai mua?
(Chợ nổi)
Đó là mối tình nông nổi giục anh đi chớ ở
phương xa mỗi lần nhớ quê anh hãy còn ra rứt lắm:
Nơi con chuồn chuồn cắn tuổi thơ tôi
Để sông nhớ lục bình thổn thức
Mấy mươi năm vẫn còn rưng rức
Cuống rún đau giấc mộng giang hồ.
Nơi cơn nồm giành giật tháng ba
Những thân phận bọt bèo nằm khóc
Tô canh tập tàng thương con mắm sặt
Đuối hơi rồi ai vớt nổi ai đây???
(Quê
nghèo)
Hoặc những khi nhớ Mẹ:
Nhà mình cách chợ làng xa
Mẹ tôi gánh cải vượt ba quãng đồng
Phải qua cả một con sông
Nhỏ nhoi giữ chốn mênh mông… là đò!
(Con
đò tuổi thơ)
Rồi khi Mẹ mất:
Nếu như đếm được bao gàu sánh
Bìm bịp đừng kêu nước lớn ròng
Mấy chục năm qua đời Mẹ gánh
Không chừng đã cạn mấy lần sông!
(Vườn rau của Mẹ)
Những khi nhắc đến người đồng bằng anh vẫn
một giọng thân thiết:
Người quê chơn chất hồn đưng lác
Mộc mạc như xôi bắp bánh tằm.
(Nhớ Tân
Mỹ)
Thơ Nguyệt Lãng ít vui, nhiều buồn có lẽ do
cuộc đời của anh vốn chịu nhiều bất hạnh, xa quê từ khi còn trai trẻ nên hình
ảnh quê hương con đó, dòng sông, ruộng nước, cánh cò tiếng dế luôn thấm đẫm
trong thơ anh. Hình ảnh quê hương và những người thân yêu như Ngoại, Mẹ, Chị
luôn ẩn hiện trong tâm khảm. Nên, anh luôn trung thành với thể thơ truyền thống
nhưng không gò bó theo kiểu bốn câu ba vần nên đọc nghe một âm điệu không nhàm
chán. Duy đột nhiên có bài mang đậm mùi triết lý nhưng cũng không xa rời thực tế:
… Sư nói ác lai là ác giả,
Bước qua sông trong lúc cùng đường
Màu lau trắng nhuộm dòng dịch thủy
Đâu có cần con chốt mang gươm?!
(Xem sư cả
chơi cờ)
Có nghĩa là anh không muốn một
phút ngưng nghỉ nhớ về quê hương bản sở nhưng do sinh kế quấn bách nghề viết
không đủ nuôi thân nên đôi khi anh cũng bật lên:
… Thơ bây giờ không mua nổi mớ rau,
Gạo mấy cân tháng không tháng có
Hùng khí tàn theo cám rã… Thơ bay!
(Thơ
thời bão giá)
Khi còn sức khỏe, Nguyệt Lãng sống bằng
nghề viết lách ăn nhuận bút, chỉ vài ba trăm ngàn (vài chục đô-la) một bài thơ.
Bèo vậy, nên cuộc sống anh vô cùng khó khăn nay anh gởi mấy chục bài thơ này
nhờ tôi rao bán. Hỏi bao nhiêu thì vừa? Khó nói phải không? Giá như ở đây (Mỹ)
có người chịu bỏ tiền ra mua đứt tác quyền về sau thơ lên ngôi hoặc tác giả nó
nổi tiếng (mà hiện tại anh cũng có tiếng rồi!) liệu xuất bản có lỗ không?
Trên quan điểm tình người, tính nhân bản,
nhân văn thì tôi cho rằng chắc chắn không lỗ vì sẽ không có chuyện lỗ lời ở đây
nếu bạn biết rằng đồng tiền bạn bỏ ra đang là cái phao cứu sinh cho một thi hữu
đang lâm trọng bịnh.
USA ngày
27 tháng 6 năm 2012
***
THÁI QUỐC MƯU - KHÓC NGUYỆT LÃNG
Bài
I
Chúng
mình gặp gỡ khoảng mươi năm
Tình
nghĩa keo sơn tựa sắt cầm
Cửa Phật
đem theo câu nguyện ước
Cõi đời
để lại cái chân tâm
Ý thơ gắn
bó lòng nhân ái
Chữ nghĩa
chia lìa kẻ độc thâm
Sống
chẳng tham danh tranh đoạt lợi
Nghìn thu
yên giấc một nơi nằm
Bài
II
Chữ nghĩa
thì anh trả nợ rồi
Thôi thì
cõi Phật viễn du chơi
Sống lành
chắc hẳn ơn lành đến
Tích
thiện đương nhiên cõi thiện mời
Nhớ bút
hãy đùa cùng tiên nữ
Thèm thơ
xin nhắn cái thằng tôi
Anh đừng
quay lại nơi trần thế
Một cõi
quanh ta lắm ngợm người
Atlanta,
USA. Jane 3, 2014
Thái Quốc Mưu gửi đăng.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ USA ngày 06/06/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét