Home
» Lý luận phê bình
» Nguyễn Đăng Hành: Vài lời tản mạn về “Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại”
Nguyễn Đăng Hành: Vài lời tản mạn về “Chân dung 99 nhà văn Việt Nam đương đại”
Thứ Ba, 20 tháng 6, 2017
Tôi từng đọc chân dung
các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số
có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt “danh giá” đã được ra lò,
trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ có hơn ngàn.
Tác giả: Nguyễn Đăng Hành
Địa
chỉ: Thôn Đa Tốn, xã Khoan Tế
huyện
Gia Lâm, tỉnh Hà Nội
Điện
thoại: 0166.467.78.26
_____
Vài lời
tản mạn về
CHÂN DUNG 99
NHÀ VĂN VIỆT NAM ĐƯƠNG
ĐẠI
*
Tôi từng đọc chân dung các nhà văn đương đại của Xuân Sách, Đỗ Hoàng, Trần
Nhương, Hồ Bá Thâm… Con số có tới hàng ngàn, nghe đâu trên ba ngàn khuôn mặt
“danh giá” đã được ra lò, trong lúc hiện nay Hội nhà văn Việt Nam tổng thể chỉ
có hơn ngàn.
Nay lại được chiêm ngưỡng 99 chân dung nhà văn Việt Nam đương đại của
Nguyễn Khôi. Chà chà… Văn tài như “lá rụng mùa thu”, phen này đất Việt Văn Hiến
lại bùng nổ nhân tài “đặc biệt” kỳ vĩ đây. Mỗi người mỗi vẻ: Xuân Sách quả là
chín rưng rức, tràn trề thăm thẳm, góc cạnh sắc sảo, uyên thâm, uyên bác; Đỗ
Hoàng đa năng táo bạo, giọng điệu sàng xê bay nhảy thủy hỏa tương giao; Hồ Bá
Thâm dò dẫm dàn dựng, gắng gượng đưa đẩy; Trần Ngọc Sơn đều đều cần mẫn trơn
tru tuồn tuột; Trần Nhương tự tin khôn khéo dụng công trau chuốt, công năng dàn
trải,… Mỗi ông đều là những vị thủ kho mẫn cán, thu thập hồ sơ tên tuổi tác
phẩm quá khứ hiện tại rồi lắp ghép, sắp đặt thành chân dung, thoáng đọc thoảng
nghe cũng thỏa mãn cái tò mò, bức xúc nhưng xem kỹ đọc nhiều thì nhàm nhạt,
ngấy ngộ... Theo tôi, đã là chân dung thì phải lột tả, phác thảo, khắc họa
khuôn mẫu, cũng như thợ vẽ thợ ảnh phải đứng ở góc độ, chớp đúng thời cơ mà vẽ,
mà chụp cái thần sắc để thành ảnh sống động, khí sắc thăng hoa, rồi mà treo
ngắm, thưởng lãm... Còn bác Nguyễn Khôi nhà ta thì sao? Rất tốc độ, thật lòng,
thật sự ra công cố sức đôi khi nín thở, dồn hơi, gắng bứt vượt, cố đèo bòng....
Có lẽ bởi cái bóng cái tán của Xuân Sách, cái áp lực của 200 công trình bài bản
kỳ khu của Trần Nhương... Và thêm phần tuổi tác sức khỏe nên tác phẩm của bác
phần nhiều viết bằng chí năng nên phần dương khí cương cường lộ liễu, nhiều câu
na ná, công thức bài bản, xem mặt kể tên, lấy sự kiện sự việc, sự thật các câu
chữ số phận của mỗi “nhà” rồi sắp đặt lắp ghép thành “chân dung” nên cứ na ná,
trùng lẫn. Ngay cái tít Chân dung 99
nhà văn Việt Nam đương đại đã
thấy rầm rộ hoành tráng quá, giá tác giả hạ bút đặt tên Thoáng nét
người văn tôi tâm ý hoặc
chẳng cần quốc hiệu đương thời bảo lãnh thì sẽ nhẹ nhàng dễ gần dễ cảm hơn. Dù
sao tôi cũng vô cùng cảm phục lão thi sĩ, lý do đầu là ở cái tuổi lẽ ra cụ cứ
ngự lãm khề khà trà rượu, cháu chắt hầu hạ kính cẩn ấy thế mà cụ vẫn cố dồn
công lực phát tiết nội sinh làm nên tác phẩm lưu danh hậu thế. Thứ hai là cụ đã
hùng dũng thẳng thắn, khảng khái không kiêng sợ các “đền đài thần thánh” một
thời thiêng liêng ngự trị. Thứ ba là từ trái tim nhân hậu, tâm hồn khoáng đạt
và sự từng trải, tác giả đủ bản lĩnh dũng cảm dám lên tiếng bảo vệ nhân văn,
nhân quyền, nhân phẩm, sự thật và dân chủ. (Đúng ra là phải
dẫn chứng cụ thể nhưng vì khuôn khổ bài viết vậy mời bạn đọc tìm đọc tác phẩm
của Nguyễn Khôi sẽ rõ: /chan-dung-99-nha-van-viet- nam-uong-ai.html.) Thứ tư, tác
giả nhân ái, công tâm, giàu tin đỡ lớp trẻ, người chưa có điều kiện, tác phẩm
mới lấp ló cánh cửa văn chương hoặc chưa nổi bật, chưa khác biệt đặc biệt… mà
viết chân dung văn học thì tiêu chuẩn đầu tiên là phải tìm kiếm, điểm danh, lựa
chọn, tuyển chọn những gương mặt đặc biệt khác biệt, hữu danh tài đức, đã có
tác phẩm vang dội, gây ảnh hưởng lớn trong xã hội...Mọi sự so sánh đều khập
khiễng, soi mói, dòm ngó chê bai thì “chó nó cũng làm được”. Thôi, có nụ mừng
nụ, có hoa mừng hoa, chúng ta hãy chúc mừng tác phẩm đã mẹ tròn con vuông, đã
thành sách truyền bá, xin “Kính tích tự chỉ.”.
Tôi nhấm nháp thưởng lãm một số chân dung mà tôi khoái trá. Phục nhất,
khoái nhất là tài nghệ của lão thi bá, chỉ dùng bốn câu gần như tứ tuyệt nó gò
bó khuôn khổ, buộc bốn câu bốn chức năng “khai, thừa, chuyển, hợp”, nếu không
đúng đủ bốn chức năng ấy thì bài thơ lễnh loãng, lỏng lẻo, sơ cứng, sáo mòn,
nhạt nhẽo, vô hồn, thất sắc, nếu đủ đạt thì bài thơ cựa quậy, run rẩy sống động
lồng lộng vô vi, ví như Chân dung số 1 - Tố Hữu: Chỉ cần 4 câu đầu đã đủ đã
tuyệt rồi (Tự
cho mình là Lành/ mọi người thấy rất dữ/ mác lê bọc bằng thơ/ đã đâm chỉ có tử.),
cả nghĩa đen và nghĩa bóng đều đúng, rất khêu gợi, lột vẽ, khắc chạm rõ khuôn
mặt. Sự cố “cây táo ông Lành”, cuộc cải cách “nhân văn giai phẩm”, một chính
khách, hung thị chuyên gia Đảng - Bác đã gây nên bao nỗi hận đau sâu lụy cho
văn nghệ sĩ. Thế là được rồi, cần gì khổ 2 nữa, nó diễn giải dài dòng, kể lẽ be
chắn, thiếu tập trung mất đỉnh điểm. Chân dung số 2 – Chế Lan Viên, câu kết
“giấu đi mặt ma chơi”, không hiểu chữ “ma chơi” có sát nghĩa đúng hồn bài “Tháp bai on”
của Chế không nhỉ? Nguyên bản là thế này:“Anh là tháp
bai on bốn mặt / giấu ba mặt còn đó là anh/ chỉ mặt đó ngàn trò cười khóc/ làm
đau ba mặt phía ẩn hình”. Rõ ràng cái câu hợp thứ 4 này toát lên cái ăn năn
hối lỗi, dằn vặt về cái thời danh lợi, giá áo túi cơm, đó là cái thiện tâm,
phật tính chứ đâu phải là “ma chơi”.
Tiếp theo, tôi xin vỗ tay chân dung mà ông phác thảo tương đối đạt, cụ thể:
Chân dung số 6 - Xuân Thủy: Hai câu đầu giản đơn kể nhắc, hai câu sau tuy không
vẽ kẻ nhưng nổi bật gương mặt chính khách lịch lãm trí thức, nhân vật đặc biệt
góp phần quan trọng làm nên lịch sử dân tộc, khi khúc mắc đã bật, đã phát lời
tuyên ngôn bất hủ “Không giam
được trí óc”, khẳng định văn nghệ sĩ phải được tự do, không bao giờ bị giam
hãm, trói buộc. Đến chân dung thứ 8 - Việt Phương, đã là thi thoại giai thoại
một thời. Một nhà thơ nhạy cảm nhạy bén, bản lĩnh hiên ngang cho ra “Cửa mở”:
“Đồng hồ
Liên Xô tốt hơn Thụy Sĩ... Trăng Trung Quốc sáng hơn trăng nước Mỹ”, “Bao giờ ta đủ
tầm cao/ để ta bắt được vì sao trên trời”. Động cham một loạt nguy lụy theo
bởi cái thời bao cấp mậu dịch, đồng ca minh họa, bốc thơm tụng ca lừa gạt,
Nguyễn Khôi nộ, nỡm: “Ta cái gì cũng
hồng/ đich cái gì cũng xám/ Trảm”. Câu kết sắc lẹm. Câu thơ khuyết hậu. “Trảm”, chỉ
một câu ấy mà thót tim ớn lạnh, hiện ra bộ mặt lạnh ngắt sám sịt tử khí của cái
thời văn chỉ điểm, văn lãnh đạo, thấp kém thô bạo. Nổi bật chân dung vững vàng
bản lĩnh Việt Phương.
Chân dung thứ 9 - Hữu Thỉnh. Cái ông lắm người yêu, đầy kẻ ghét, tác phẩm
cũng chỉ thường thường bậc trung, viết phục vụ chiến tranh một thời nhưng bảo “xoàng xĩnh lên
ngôi” thì hơi quá. Thơ Hữu Thỉnh chẳng xuất sắc cũng đâu đến nỗi kém cỏi mà
“xoàng xĩnh”
thì hơi oan. “...Ghế cao anh
ngồi” thì đúng quá rồi vì sao? Vì anh đã cố công chạy ngược chạy xuôi…. “Điếu văn hót
tới đỉnh” chứng tỏ anh cũng phải xuôi ngược lưu tâm cố ý thì mới có “điếu văn hót
tới đỉnh”. Riêng cái khoản này, cộng cái ham muốn nỗ lực và say ghế thì ghế
anh ngồi cũng xứng thôi.
Tiếp đến Hoàng Cầm. Nói đến Hoàng Cầm là thấy “diêu bông”,
“mưa Thuận
Thành”, “Hạt
mưa chèo bẻo/ nhạt nắng xuyên khoai/ hạt mưa hoa nhài/ tràn đêm kỹ nữ/ hạt mưa
sành sứ/ vỡ gạch Bát Tràng... Thuận Thành đang mưa”. Nguyễn Khôi rất khéo
dùng thủ pháp “Xê dịch”, chỉ thay đổi một vài con chữ, vị trí, ý tứ của Hoàng
Cầm mã đã thấy rõ cuộc đời, số phận Hoàng Cầm hiển hiện ví như câu: “Váy Đình Bảng
buông chùng xuống/ đâu thấy lá diêu bông”. Đã đôi lần tôi được hầu rượu nhà
thơ Hoàng Cầm, tôi có hỏi: Thưa bác lá diêu bông là gì? Mặt ông chùng xuống,
đăm đắm nhìn qua khung cửa... Sau một vại rượu, ông thủng thẳng: Thế ông không
đọc, không hiểu câu cuối bài: Từ thủa ấy/ em cầm chiếc lá/ đi đầu non cuối bể/
gió quê vi vút gọi/ ...diêu bông hời.../... ới diêu bông. Hóm quá. Tế nhị tinh
vi quá! “Váy
Đình Bảng buông chùng xuống/ Đâu thấy lá diêu bông”. Vì không thấy nên ông
bị 8 tháng ngồi Hỏa Lò. Hoàng Hưng vì yêu thích, cầm giữ lá “diêu bông” bị 4
năm bóc lịch. Thì “mưa Thuận Thành tầm tã” thì ông đành, ông đã, ông phải, ông
lại “ngây ngất ả phù dung”.
Chân dung 14 - Trần Dần. Một tài thơ nổi trội, một nhân cách chân chính nói
tiếp qua 2 câu thơ: “Tôi khóc những
chân trời.../...Những người bay không có”. Ta nhớ 2 câu thơ nổi tiếng của
Trần Dần: “Tôi khóc những
chân trời không có người bay/ Tôi khóc những người bay không có chân trời”.
Câu thơ ẩn dụ ám ảnh khiến ta liên tưởng tới cái xã hội đương thời... Đời là
thế đấy. Người bay thì không có chân trời. Chân trời thì không có người bay. Ôi thương xót
cho nền văn học, số kiếp văn nhân của thời đã qua. Trần Dần đau đớn xót xa cho
thế sự nhân sinh, ông kiên cường tin tưởng vững chắc vào chân chính làm nên tác
phẩm“Nhất định
thắng... công toi”. Xin thưa! Công
không toi đâu. Tài năng và sự can trường hy sinh đã để lại cho đời tác phẩm giá
trị. “Cổng tỉnh”
đã được giải của Hội nhà văn Việt Nam rồi mà.
Chân dung 15 - Lê Đạt. Lê Đạt là người cùng thời, cùng họa với Phan Khôi,
Trần Dần, Phùng Quán, Phùng Cung, hoàng Cầm... Thất thời gặp họa lâm nạn, tù
túng thiếu thốn lấy thơ làm nỗi sống niềm sống, ông tỉ mẩn kỳ công đắp vẽ mổ sẻ
lai ghép, lắp ghép, thử nghiệm, sáng tạo kiểu thơ riêng, ông gọi là “bóng chữ”,
người “phu
chữ”, âm thầm cần mẫn đẽo tỉa, cấy ghép đã thành công đáng kể, dẫu đã nhiều
phen e chề, thất bại. Nguyễn Khôi ở gần cái tuổi thời ấy nên dễ hiểu và đồng
cảm, nắm vững giải mã được “bóng chữ”
của Lê Đạt nên thấy: “Đẽo/ tỉa bay
mất hồn/”, nhưng Nguyễn Khôi vẫn ngờ vực hỏi: “Người chết/thơ
còn, hết?/ “Đường chữ” nẻo cô thôn”. Đường chữ là tác phẩm. Câu trên hỏi ỡm
ờ thì câu sau giải mã ngay. Thơ Lê Đạt, thấy cái thâm thúy gợi mở của Tàu, cái
tích ép của Nhật, cái thực dụng của Mỹ nhưng vẫn mù mờ, ỡm ờ tốc độ súc giác
của Lê Đạt. Viết đến đây tôi thấy tôi bị lan man, tản mạn quá. Sao mà đủ tài đủ
sức theo đuổi dò mở dòm ngó 99 kho tang bí ẩn huyền ngã… Vậy tự thổi còi thư
bút khép lại mà thưa thớt một số vấn đề trong một số chân dung.
Thưa lão thi bá! Ở nhóm mảng tiền bối danh giá có lẽ do đặc điểm khuôn khổ
khắt khe gò bó cô đọng của thể thơ tứ tuyệt nên một số chân dung chỉ thấy chân
tướng, ví dụ như bài 21 - Xuân Diệu: “Đồng tính” bị
đấu tố/ cụt hứng làm thơ tình/ Thôi thì ca “ngói mới”/ đi “nói chuyện thơ mình”.
Nguyễn Khôi dùng tác phẩm “Đồng tính” “Ngói mới” “Nói chuyện thơ” để ghép thành
bài tứ tuyệt nhưng đấy mới là thơ “tứ” nhưng chưa “tuyệt”, vì đây mới là cái
chân tướng, giai đoạn, sắc thái nhất thời của Xuân Diệu chứ đâu phải là cái góc
cạnh, khuôn mặt thần thái, hồn vía thơ Xuân Diệu. Hoặc Huy Cận, cái thành công
vang dội trường tồn của “Lửa thiêng”
và “Mỗi ngày mỗi
sáng” thì thi trường và thời gian đã thử thách thừa nhận Huy Cận là nhà
thơ cảm quan vũ trụ, có cảm quan nhân sinh quan tuyệt hảo ngất ngất... Sau này
gia đình ông có chuyện riêng không hay lắm, Cù Huy Hà Vũ, con trai có quan điểm
sống khác, dù sao đó cũng là chuyện của mỗi gia đình chứ có làm tắt “Lửa
thiêng” đâu? Còn việc tên đường phố thì có cũng hay, chưa có thì cũng đừng ngạc
nhiên, chớ như ai kia đã rút hai câu “Mặt trời xuống
biển như hòn lửa/ Sóng đã cài then đêm sập cửa”, rồi suy diễn, áp đặt, chụp
mũ thì chua chát cái sự đời quá. Hoặc 25 - Minh Huệ. Cả đời thơ ông nổi bật bài
“Đêm nay Bác
không ngủ”. Bài thơ của ông là tấm lòng, tiếng lòng của những người
lính cảnh vệ ngưỡng mộ Bác tuyệt đối trung thành, kính trọng yêu thương Bác. Đó
là cái tình đồng chí, tình cha con, sao lại “Vợ dí thơ...
Tính tình/ Bác là Hồ Chí
Minh/ Tỉnh tình đâu mà dí”. Có thể tác giả chỉ đùa nỡm chơi chữ vui vui
nhưng đọc thấy thô tục vô độ thế nào ấy. Đọc 4 câu số 26 này, tai tôi vẳng lên
câu ca dao “Em
xinh lời nói cũng xinh/ Em giòn thì cái tỉnh tình tinh cũng giòn”. Hoặc câu
vè tếu táo mà Nguyễn huy Thiệp, Bảo Sinh, Bùi Hoàng Tám tranh nhau nhận: “Vợ tôi dở dại
dở khôn/ Vợ tôi nó lại dí... vào thơ.”. Đừng để công chúng hiểu lầm bởi các
ám ngữ phóng từ tùy tiện này, nhất là với vị lãnh tụ kính yêu.
Chân dung 35 - Phùng Cung. Tác giả hai câu thơ: “Lên đệnh khắp
nước cùng non/ Dạt vào ao cạn vẫn còn lệnh đênh.” Vì cái truyện ngắn Con ngựa giá
chúa Trịnh mà mắc nạn,
bởi bọn “lính gác” văn chương, mấy tay chỉ điểm mong ông bị tù đày. Ra tù, nhờ
Phùng Quán, Nguyễn Hữu Đang giúp đỡ cho tập “Xem đêm ra đời”
Hậu thế biết cái bản lĩnh tính kiên cường qua bài thơ thể Hai Kư: “Quất mãi nước
sôi/ Trà đau nát bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương.”, thì ta thấy cái kiếp bèo
bọt của thi nhân “dạt vào ao cạn
vẫn còn lệnh đênh” bản lĩnh quật cường, “Trà đau nát
bã/ Chẳng đổi giọng Tân Cương”. Vâng, giữ giọng, giữ bản lĩnh nhân văn nhân
bản thi sĩ, chứ đâu “quất bã chè
thành thơ?”!
Chân dung 29 - Bùi Giáng. Tôi không đắc ý với câu “Nghêu ngao giả
cuồng điên”. Chữ “Giả” không đạt lắm. Thực thì Bùi Giáng điên điên, điên
tình, điên cảnh, điên thơ, điên đời... Thường thì các thi sĩ thiên bẩm thiên
tài đồng bóng thăng hoa mà phát thơ. Thơ Bùi Giáng có đặc điểm là bất thường vô
thường, (Chân không tới đất, cật không tới trời), lâng lâng ảo ảo, cuồng cuồng
say say, nó vô định ma mị lắm. Chính thế mới tạo nên cái “Bùi Giáng”, “Trường
phái thơ Bùi Giáng”, không khéo Nguyễn Khôi lại lầm như trường hợp Xuân Diệu
nhận định nhầm Hàn Mặc Tử.
Chân dung 43 - Lê Lựu. Đọc chân dung này thì thấy cái chân tướng đời
thường, kẻ đường chợ chứ đâu là chân dung một nhà văn Lê Lựu, một Giang Minh
Sài (Thời xa vắng),
một Núi (Sóng ở đáy
sông). Còn cái chuyện tình ái, vợ chồng, gia đình hãy cho qua, hãy phác
họa, ký họa, khắc họa những nét đặc biệt, đặc trưng chân dung VĂN HỌC. Hãy
hướng tới cái có, cái được, cái đạt, cái đặc biệt nổi trội của nhà văn thì văn
chương hơn, nhân ái, hỉ xả hơn.
Chân dung 45 - Chân dung Nguyễn Nguyên Bảy và Lý Phương Liên…
Tiếc quá! Lại ghép hai “Nhà” cùng nhau…Gây phản cảm. Tất nhiên ý tác giả
ghép chân dung hai vợ chồng, hai nhà tài năng liền nhau cho thân mật thắm
thiết, nhưng gây cho người ta nhìn nhầm thành hai đầu sáu tay…ngộ ngộ. Nói đến
Lý Phương Liên phải nói đến “Ca bình minh”,
“Tâm sự với
Thúy Kiều”. Người ta không quên vụ án “Thúy Kiều” án không án, vì nhà
thơ quá nhạy cảm, thông minh mẫn cảm đi trước thời đại…Nguyễn Nguyên Bảy bất tử
với tuyên ngôn “Thơ là thơ
không phải địa vị người làm thơ” hoặc lương tâm lý trí tư cách đạo đức tư
tưởng: “Màu
đỏ của máu/màu vàng của da/mỗi chúng ta/là một lá cờ”. Hay sâu xa bất hủ
như: “Cháy
rồi, cháy hết phần thơm/chân hương đứng lặng nỗi buồn vô vi/rồi màu phẩm nhạt
phai đi/dẫu chẳng còn vẫn đứng chân hương”. Tâm tình, dúng nghĩa nhân lễ
trí tín quá! Tài hoa bất hủ, bất tử quá quá! Đừng quên những lời thơ gan ruột
này là chân dung Nguyễn Nguyên Bảy những “Ca bình minh”,
“Tâm sự Thúy
Kiều” là tượng đài lồng lộng thăm thẳm mênh mang Lý Phương Liên. Còn “Chàng Tư mã
say thơ/mê mùi sen phố cổ/ “chém gió giữa Thủ đô/thơ bạn thơ” rạng rỡ”. Chỉ
là bề nổi, chỉ là cái bóng thoảng của hai nhà thơ nổi tiếng này thôi.
Chân dung 47 - Dương Thu Hương. Tôi đã được đọc “Thiên đường mù”,
“Đám cưới không
giá thú”, “Bên kia bờ ảo
vọng”, tôi phục trí óc của bà, tôi quý giọng văn sắc sảo biến ảo đa
chiều góc cạnh của bà. Đọc số 47 Dương Thu Hương và 26 Minh Huệ tôi phục và sợ
sự tưởng tượng hư cấu lồi lõm góc ngách phù thủy của Nguyễn Khôi. Nhưng vẫn
buồn buồn vì những câu “Tức khí mà tắt
kinh/Thiên đường mù vẫy gọi/ Chào tỉnh lẻ
vĩ nhân”…Đã tắt kinh,
thì hết trứng, hết trứng thì làm sao sinh nở được nữa. “Thiên đường mù
vẫy gọi” vô vọng quá! “Chào tỉnh lẻ
vĩ nhân” hài bi, bi hài quá! Tất nhiên “Thiên đường mù”
“Tỉnh lẻ vĩ
nhân” là tác phẩm nhưng cũng là con người xã hội, thế thời thời thế…Những
câu chữ rất ý tứ góc cạnh (ý tại ngôn ngoại). Nhưng tắt kinh tuy đúng, tuy lạ
nằm bên, hiện lên trang giấy khó đọc quá cứ tởm tởm mất vệ sinh…- Tôi lại lan
man quá rồi! Trên các trang mạng nhan nhản phất phới lời ca lời bình 99 chân
dung rồi, Nguyễn Khôi đã được các nhà uy danh phong “tuyệt vời”, “Thượng thừa
ngôn ngữ”, “Thư ký thời đại”… “Xuất khẩu thành chương”… “Nguyễn Khôi sáng
ngời…”. 99 gương mặt đã được các nhà bình bàn rất kỹ rất hồn nhiên, các khuôn
dung đã lồ lộ quá rõ rồi thôi tôi hết đất miễn bàn. Lẽ ra tôi định bàn tới các
nhà thơ chính, phân cao thấp. Nhưng như nói đã quá đủ trên các báo mạng rồi tôi
chỉ xin thoáng qua mấy nhà thơ mà tôi có quen biết.
Kính thưa nhà văn Nguyễn Khôi - Văn Thùy không giỏi diễn dị nhân đâu. Có
thể thời đầu, đoạn đầu Văn Thùy tập diễn, cố diễn sau bị con “ma thơ” đánh bùa
mê thuốc lú thành “dị nhân” xịn đấy, ông gày gò, ông từ bỏ, ông mất mát đúng
như bài thơ “Văn Thùy dị
nhân” của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến đã lột tả. Còn “Thấy Bùi Giáng
là lủi” Văn Thùy sao dám đấu với Bùi Giáng mà “lủi”. Còn người đời ngộ nhận
thì bàn làm gì? Văn Thùy có đôi nét ngoại hình, có dòng thơ lục bát nhuần
nhuyễn bắt hơi nhau một chút, ví như câu “khóc người một
con” trùng câu trùng ý Bùi Giáng. Cái “điên” của Bùi Giáng đâu có giống cái
“bụi” của Văn Thùy. Chính Văn Thùy tự nhận là rơm rác bụi bặm rồi cơ mà. Thôi
thì Văn Thùy đã được làng thơ phong “dị nhân” “Thơ bụi”
cũng là lẽ tự nhiên thôi chứ “Khéo dán tem
“thơ bụi”sao nổi.
Người thứ hai là bạn tôi, là thầy thơ tôi Hoàng Xuân Họa, chân
dung 63: “Thơ
“trong” ba lô ra trận/Bỏ “trót một thời yêu”/”Chuyện cõi âm lạ lẫm/ Trả đời cho
Chí Phèo”. Chân dung này thật 100% nhưng nhạt loãng, tuyền toàng. Cụ thể
nghĩa đen,sự thực năm
1970 anh chàng tân binh Hoàng Xuân Hoa yêu thơ say thơ quý phục Ca bình minh của Lý Phương Liên. Anh chép tay cõng
trên ba lô đi khắp chiến trường ABC. Qua cuộc chinh chiến ở chiến trường Nam
Bắc ở trường đời anh thai nghén chửa đẻ ra “Trót một thời
yêu” giọng điệu trăn trở hồn thơ chấp chới gây làn sóng lăn tăn sau
chiêm nghiệm từng trải là người trong cuộc chiến, cuộc sống anh cho “Chuyện cõi âm
ra đời” vừa hài vừa bi vừa hư vừa thật, nhưng rưng rưng nhưng nhức cho
độc giả sau, trước cái xã hội thật như đùa cười ra nước mắt anh sinh ra “Chí Phèo đi dự
Fet ti van”. Bác Khôi ơi! Bài viết của bác đúng đủ nhưng vẫn chưa rõ
cái thần thái uy quang của Hoàng Xuân Họa mà ngược lại người ta hiểu lầm, tưởng
sai về nhà thơ khó tính đa tài đa tật nhiều lắm, nhất là “Trả đời cho Chí Phèo”
oan quá, tầm thường quá! Ngộ quá!
Ông bạn thứ ba mà tôi kiêng nể dẫu ít tuổi, chỉ hơn con lớn của tôi bốn
tuổi, đó là Đặng Xuân Xuyến, chân dung số 89. Vì sao? Xin thưa. Vào khoảng
những năm 1990 - 2000 xã hội
mở cửa, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố cởi trói cho văn nghệ sĩ, các nhà
văn nhà thơ thậm chí cả các nhà hưu trí nhà bất mãn thất thời đua nhau phấn đấu
trở thành thi sĩ văn sĩ đua in ấn các loại văn thơ: “đâu là đôi mắt”,
“Như có Bác
Hồ”… Thế mà anh bạn trẻ trên tay cầm cái bằng đại học nhân văn xã hội đỏ
chóe ngày đêm xem cổ, tiếp kim chiêm nghiệm thực nghiệm cho ra đời hàng loạt
đầu sách mới lạ (có thể lên tới
hàng trăm đầu sách với nhiều bút danh). Nổi bật gây dư luận nhất là hai tập
sách, một làGiới tính và
giáo dục giới tính (1997). Nội dung khoa học về đời sống tình
dục và giới tính. Anh tiếp thu thành tựu của nước ngoài, kết hợp cái thực tế ở
trong nước, nhất là những cái ở ta đang lấn cấn để mà thành sách, giúp người,
giúp đời, giải phóng mặc cảm, giải phóng thân thể tự do, hướng tới sống khỏe, sống
hạnh phúc nhưng ở giai đoạn đấy anh đi quá sớm nên ăn đòn (bị thu hồi). Tác
phẩm thứ 2 là cuốn Tử Vi kiến
giải, được viết theo quan điểm chắt lọc những tinh hoa của tiền nhân,
của Tử Vi Việt, giúp bạn đọc tiếp cận dễ hơn, đúng hơn về niềm tin tín ngưỡng
của người Việt thế nhưng cũng bị nhà chức trách thổi còi “đình bản” nhưng không
thu hồi. Sách vẫn được truyền tay tìm đọc, nghe đâu, vẫn được tái bản mấy lần.
Đó là cái riêng, khác lạ của một đời văn, một đời người. Vậy có xứng là nhà văn
có giọng văn dáng dấp đương thời đương đại không? Ấy là chưa nói anh còn viết
một loạt truyện ngắn: Chuyện cu Tố
làng tôi, Chuyện của gã Khờ, Kim yêu, Chuyện ngủ... được bạn đọc yêu thích,
ngay chính lão thi bá Nguyễn Khôi cũng làm bài thơ 5 đoạn cảm đọc gã Khờ. Lại
còn mảng thi ca. Dẫu thơ anh chậm xuất hiện nhưng đã gây ấn tượng bởi cái giọng
điệu sắc lạnh, tốc độ, tứ ý ngồn ngộn tự nhiên, đầy tâm trạng, đủ chân thiện mỹ
như: Bạn Quan, Quê
nghèo, Tôi nghe, Ru con, Tim đau, Mơ trăng, Tình Nở... Nhất là thơ tình đầy
trăn trở. Bêlin Xiki nói: “Chỉ cần anh có
cái giọng riêng đã đáng là một nhà thơ rồi.”. Vậy mà bác Khôi nhà ta đã
nghuệch ngoạc vẽ thế này: “Buôn sách và
viết sách/ Vui gà trống nuôi con/ làm tình “cưỡng” không thích/ Thơ như thời
trai son.”. Thực quá dễ dãi, quá thô, quá trơn tuột. “Buôn sách”, “gà trống
nuôi con”, “làm tình “cưỡng” không thích” thì đâu phải chân dung, phải chăng
chỉ là về đời thường chứ đâu là cái hồn cốt, cái chân dung để đời của nhà văn?!
Chân dung 97 - Vũ Từ Trang. Nhà thơ này trắng trẻo đẹp trai điềm đạm. Thơ
hay văn giỏi. Anh rất coi thường thơ tôi. Anh thường bảo thơ tôi là thơ con
cóc. Vâng. Tôi rất bực mình và tự ái nhưng tiếp cận thơ anh tôi cụt lủi. Thơ
anh rất hiện đại nhưng ý tứ gợi mở ám ảnh như bài: Chiếc đồng hồ
cũ, Cái ghế, Thăm nơi sơ tán…. Một loạt bài rất hay, không thiếu chất suy
tư chiêm nghiệm, triết lý rất Đông Á. Thơ anh và văn anh đăng rất nhiều trên
báo trung ương và địa phương, gây nhiều hiệu ứng trong xã hội. Cuốn Phía sau
con chữ, chân dung văn học ông viết nhẹ nhàng, chân thật, sống động, có chiều
sâu, có bề dầy. Anh là người “vua biết tiếng chúa biết tên”. Ấy thế mà Nguyễn
Khôi nhẹ nhàng “vô tư” viết: “Vươn lên từ
chủ doanh nghiệp/ Từ chân báo thủ công/ Văn chân dung chân thật/ Thơ ngọt khế
sắt đồng”. Thơ Vũ Từ Trang không chỉ ngọt khế sắt đồng, còn có cả chua chát
đắng cay tràn trề dân dã, lóng lánh trí thức, ấn tượng cổ kim... Bác Khôi lại
cẩn thận đóng vai cán bộ tổ chức, xét lý lịch mấy đời thi nhân, đã khắc họa
chưa đạt chân dung thơ văn đã đắc đạo của Vũ Từ Trung.
Người thứ 5 mà tôi biết là Nguyễn Thanh Lâm, chân dung số 86: “Đêm tỏa Hương
dương cầm/ Nghe mưa trên mái cổ/ Siêu thoát trong rừng tùng/ Thơ lang thang bát
phố.”. Ba câu đầu ít nhiều có hồn vía nhà thơ Nguyễn Thanh Lâm nhưng câu thứ
tư “Thơ
lang thang bát phố” thì e không đắt, không hợp với Nguyễn Thanh Lâm, người
nặng về tâm linh tĩnh tại. Thơ Nguyễn Thanh Lâm có chất thiền định, nghe mơ hồ
bần lâng vô vi thi vị. Với con người điềm đạm cân bằng sâu xa an lạc và dòng
thơ du dương cuồn cuộn nồng đậm ấy chẳng bát phố đâu. Vả lại, ông chẳng có tác
phẩm nào là “bát phố”, không khéo người ta lại nhầm với ông Bảo Sinh thì nguy.
Đang viết thì chuông điện thoại đổ gấp. Tôi nhấc máy nghe, đầu dây bên kia
là giọng của ông bạn thơ tuổi đã cao niên: - “Alo! Ông Hành
có được tặng 99 nhà văn đương đại của Nguyễn Khôi không? Có cái bìa 2 lạ lắm.
Nhà văn Nguyễn Khôi cưỡi ngựa xem hoa, không biết là ý gì nhỉ?”. Tôi vội mở
điện thoại ra xem, quả lão thi nhân vẫn phong độ chững chạc lắm. Áo véc tím hồng,
khuôn mặt ngây ngây, mủm mỉm cười, tay
phải đút gọn túi áo, tay trái vịn cành đào hoa nở rực rỡ. Tôi vội trả lời: - “Ồ không phải
là cưỡi ngựa xem hoa mà là vin hoa đút túi….”.
Định viết thêm nhưng tôi thấy thế cũng đã nhiều nên tạm dừng bút.
Vâng. Thật lòng, tôi cứ tiếc, cứ lẩn thẩn với những suy nghĩ trong đầu: Giá
như thi bá Nguyễn Khôi bình tâm tĩnh trí khoan dung hỉ sả nhân ái một chút,
tĩnh tâm tận tình mà viết 99 chân dung; giá như thi sĩ Nguyễn Khôi đọc kỹ, đọc
ngấm, đọc thấu, đọc trách nhiệm với những tác phẩm của các “chân dung” thì tác
phẩm sống động hơn, các chân dung ấy sẽ trường tồn hơn...
Vâng! Cảm phục nhà thơ và cũng rất tiếc thay!
Khoan Tế, những
ngày đầu tháng 06.2017
Địa chỉ: Thôn Đa
Tốn, xã Khoan Tế
huyện Gia Lâm,
tỉnh Hà Nội
Điện thoại: 0166.467.78.26
Đặng Xuân Xuyến gửi đăng.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 20/06/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét