Châu Thạch: Đọc “Khi anh chết” Thơ Lê Mai
Thứ Sáu, 2 tháng 6, 2017
Tôi là
một người lính miền Nam, Lê Mai là một chiến binh miền Bắc, không
phải vì thế mà không thể đồng cảm nhau, nhất là bài thơ của Lê Mai
chỉ nói sự nằm xuống của một con người. Đọc toàn bộ bài thơ, lúc
đầu ta tưởng chẳng có gì đáng phải khen, người chiến binh nào
khi chết ở mặt trận thì cũng thế. Thơ anh không tiếng rên, chỉ có
một chút nước mắt, khô cằn như sỏi đá. Tuy thế, chính sự khô cằn
của bài thơ làm cho tôi thấy buốt giá, thấy rợn người và bắt tôi
phải viết, viết ngay và viết khen.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Châu Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
ĐỌC “KHI ANH CHẾT” THƠ LÊ MAI
Tác giả Châu Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
ĐỌC “KHI ANH CHẾT” THƠ LÊ MAI
***
KHI ANH CHẾT
Thơ Lê Mai
(Nỗi buồn chiến tranh viết bằng thơ)
***
Khi anh chết, anh vẫn
còn thấy đói
Anh nhìn tôi như hỏi:
có còn gì?
Mắt lệ nhòa, tôi còn
biết nói chi
Bốn phía rợn tiếng đề
pa của pháo!
Khi anh chết anh vẫn
còn muốn nói
Tâm sự gì với vòi vọi
trời cao?
Gió thương anh nên cố
sức phều phào
Bốn phía rợn tiếng đề
pa của pháo!
Khi anh chết anh vẫn
còn muốn nhắn
Nhắn nhủ gì trong
nước mắt rưng rưng?
Mắt đột nhiên biến
sắc khoảng trời rừng
Bốn phía rợn tiếng đề
pa của pháo!
Anh chết vội tôi chôn
anh cũng vội
Không đào sâu chôn
chặt mộ cho anh
Biết làm sao anh hỡi
chiến tranh
Bốn phía rợn tiếng đề
pa của pháo!
Lê Mai
Lời bình Châu Thạch
***
Tôi
là một người lính miền Nam, Lê Mai là một chiến binh miền Bắc, không
phải vì thế mà không thể đồng cảm nhau, nhất là bài thơ của Lê Mai
chỉ nói sự nằm xuống của một con người. Đọc toàn bộ bài thơ, lúc
đầu ta tưởng chẳng có gì đáng phải khen, người chiến binh nào
khi chết ở mặt trận thì cũng thế. Thơ anh không tiếng rên, chỉ có
một chút nước mắt, khô cằn như sỏi đá. Tuy thế, chính sự khô cằn
của bài thơ làm cho tôi thấy buốt giá, thấy rợn người và bắt tôi
phải viết, viết ngay và viết khen.
Hãy
vào khổ thơ đầu tiên:
Khi anh chết, anh vẫn còn thấy đói
Anh nhìn tôi như hỏi: có còn gì?
Mắt lệ nhòa, tôi còn biết nói chi
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Đọc
thoáng qua nhiều người sẽ cho rằng nhà thơ nói đến “bụng đói” của
người chiến sĩ trong phút lâm chung. Không đâu, chết mà đói là sự
bình thường cúa tất cả những người trên chiến trận, không đáng gì
để đưa vào thơ. Nhà thơ muốn nói đến cái đói khác, cái đói của
người chiến binh nhập ngũ ở thời trai trẻ, kể từ đó cuộc đời họ hứng chịu
cái đói, nhưng cái đói vật chất không đáng kể mà cái đói tinh thần
mới quan trọng: Đói tháng ngày cận kề cha mẹ, đói tình yêu thắm
thiết của em, đói niềm vui sự sống ..., nói chung đói tất cả những
gì mà tuổi thanh niên cần nhận lảnh. Chữ đói trong thơ cho ta liên
nghĩ đến tất cả những vật chất và tinh thần mà người chiến binh
chịu thiếu hụt vì phải đầu quân. Tất cả từ ngữ trong khổ thơ nầy
làm vệ tinh cho chữ “đói” và chính cái tứ “đói” của thơ ẩn chứa
một nỗi đau bi thiết đã làm cho vế thơ đầu của bài thơ xao động con
tim người đọc. Cái hay của thơ là ở đó, ở chổ nhờ một chữ bình dị
mà chủ đạo, qua chữ ấy cả khổ thơ gây cảm kích và đi vào lòng
người..
Bước
qua khổ thơ thứ hai cũng vậy, chữ “nói’’ không chỉ là mang ý nghĩa
những lời cuối cùng của người chiến sĩ sắp lâm chung. Chữ “nói”
trong khổ thơ nầy cũng hàm chứa nỗi oan khuất của người trai trẻ
phải tắt tiếng giữa cuộc đời:
Khi anh chết anh vẫn còn muốn nói
Tâm sự gì với vòi vọi trời cao?
Gió thương anh nên cố sức phều phào
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Ở
đây tác giả muốn bày tỏ sự khao khát giao lưu truyền thông giữa người
sắp chết và cuộc đời. Nếu không chết người lính sẽ còn bao nhiêu năm
được nói với cha, với mẹ, với bạn bè, với em và với cả tha nhân.
Chữ “nói” trong khổ thơ nầy cũng như chữ “no” ở khổ thơ trên mang toàn
bộ ý nghĩa của đời người. Người chiến binh trước khi trút hơi thở
cuối cùng vẫn còn “thấy đói” và “muốn nói”. Cái sự thấy và muốn
ấy, không chỉ là sự thấy đói và muốn nói của thế xác mà ý
nghĩa của thơ nặng về phần tinh thần, bày tỏ sức sống, ước vọng,
nhu cầu của một sinh linh bị cắt đứt trong giây phút phủ phàng. Trong
thực tế, trước phút lâm chung vì sự đau đớn người thương binh có thể
không thấy đói, không muốn nói gì nhưng sự “thấy đói” và “muốn nói’”
trong thơ là nỗi thiếu thốn tinh thần dằn vặt theo năm tháng của đời
làm lính, là niềm trắc ẩn chất chứa trong lòng có khi nó hiển lộ,
có khi nó nằm trong tiềm thức. Tác giả bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi
niềm đó cho duy một chiến hửu chết trên tay ông mà ông bộc lộ nỗi
niềm đó trong chính cõi lòng ông, là cảm nhận của ông, là biểu lộ
hộ tiếng than ai oán, bày tỏ toàn bộ sự bi ai cho tất cả chiến binh
đã chết trên hai chiến tuyến đối nghịch nhau, tố cáo sự bất công cắt
đứt đời người vô lý của chiến tranh đã làm cho các tử sĩ chưa thực
hiện được dự phóng mà mình ao ước thực hiện. Cái “thấy đói” và
cái “muốn nói” ở phút cuối cuộc đời là cái thấy và muốn hoàn
thành sự nghiệp còn bỏ lại dở dang giữa trần thế.
Qua
khổ thứ ba của bài thơ tác giả đề cập đến ý muốn nhắn nhủ của
người tử sĩ. Người đọc thơ nên chú ý đến câu thơ “Nhắn nhủ gì trong
nước mắt rưng rưng?”:
Khi anh chết anh vẫn còn muốn nhắn
Nhắn nhủ gì trong nước mắt rưng rưng?
Mắt đột nhiên biến sắc khoảng trời
rừng
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Ai
cũng có thể đoán được người tử sĩ sẽ nhắn nhủ nhiều điều cho cha
mẹ, cho vợ con, cho những người thân yêu còn ở hậu phương. Thế nhưng
tác giả lại viết “nhắn nhủ gì” và đánh một dấu hỏi (?) to tướng,
làm như không biết sự thường tình ấy đã được viết ra trong vô vàn
tác phẩm. Vâng, tác giả biết đấy, nhưng ông muốn dùng một ẩn ý trong
thơ để nói đến những lời nhắn nhủ cao hơn về những điều thiêng liêng
hơn vợ con, cha mẹ, như là non sông đất nước chẳng hạn. Những lời
nhắn nhủ ấy, có thể trăm ngàn tử sĩ không nói thành lời nhưng nó
chất chứa đầy trong dòng nước mắt của họ. Những điều nhắn nhủ đó
là những điều ẩn chứa trong câu thơ “tâm sự gì với vòi vọi trời cao”
ở khổ thơ trên. Những lời nhắn nhủ “tâm sự gì với vòi vọi trời
cao” đó chính là ước muốn của họ gởi lại cho người còn sống thực
hiện cho tổ quốc, cho non sông, cho lý tưởng mà họ từng theo đuổi chưa
thành. Cái ước muốn hoặc là bồng bột, hoặc là tiềm ẩn trong lòng
suốt cuộc đời binh nghiệp của người chiến sĩ, khi chết họ nói ra
trong ánh mắt gởi lại cho bạn mình, trong ánh mắt chan chứa yêu thương
nhìn cõi đời lần cuối.
Khổ
thơ chót đề cập đến sự chôn vội vã:
Anh chết vội tôi chôn anh cũng vội
Không đào sâu chôn chặt mộ cho anh
Biết làm sao anh hỡi chiến tranh
Bốn phía rợn tiếng đề pa của pháo!
Chôn
vội vã là sự thật của chiến trường. Chôn vội vã là một ý chỉ sự
khắc nghiệt của chiến trường, cũng là một ý chỉ sư khẩn trương của
người còn sống. Chôn vội vã rồi đổ tội cho chiến tranh, “Biết làm
sao anh hỡi chiến tranh” là tiếng ta thán chỉ trích chiến tranh. Chiến
tranh đã dồn con người vào thế bỏ bạn, làm cho con người phải tự
biến mình thành vô cảm khi chôn bạn mình một cách qua loa tạm bợ.
Cả
bốn khổ thơ đều có câu cuối “Bốn phía rộn tiếng đề pa của pháo!”
khiến bài thơ như dồn dập tiếng nổ lớn, làm cho sự khẩn trương, cấp
bách như đang xảy ra và chiến trường như đang ở gần bên người đọc. Đó
là nghệ thuật dụng chữ làm cho bài thơ sôi động nhưng mặc khác, về
dụng ý: tiếng pháo dồn dập đổ xuống trận địa chận sự “thấy đói”,
chận sự “muốn nói”, chận sự “muốn nhắn” và làm cho “chôn vội” là
hình ảnh của tất cả sự phủ phàng đổ ập xuống người chiến binh tử
sĩ. Tiếng pháo dập xuống thể hiện cho sự chèn ép, sự bất công, sự
đàn áp thô bạo cắt ngang ước muôn, tư duy, và cướp mất quyền làm
người của người tử sĩ. Tiếng pháo chính là thần chết mang
đầy dẫy cái xấu của chiến tranh, làm những điều phi lý,đê hèn, đè
bẹp ước muốn, bóp chết lời nói, cắt ngang sự sống của con người.
Bài
thơ “Khi Anh Chết” của Lê Mai không chỉ diễn tả “nỗi buồn chiến tranh
viết bằng thơ” mà con là tờ cáo trạng chiến tranh viết bằng thơ. Tờ
cáo trạng viết những lời khô khan, đanh thép nhưng chất chứa tiềm ẩn
nỗi đau của vết thương không hề lành được. Không hề lành được vì
người chiến binh đã chết mất rồi trong tiếng đề pa bốn phía rợn
người của pháo./.
Châu Thạch
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 27/05/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 27/05/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét