Tâm Nhiên: Lê Sa Đà hòa âm cung bậc thân yêu
Thứ Sáu, 10 tháng 2, 2017
“Ơi dòng Hương hỡi dòng Hương Hiển linh mong
chỉ hộ đường giúp ta Phải chăng thị hiện đó mà Mười phương là một – Một là mười
phương” - Lê Sa Đà đã nói như
thế, về quê hương mình. Sông Hương, núi Ngự là nơi chốn thi sỹ sinh ra đời, từ
năm 1946. Suốt một thời thanh xuân rực rỡ, thở nồng nàn, mát rượi, dưới mái
trường Quốc Học, chàng thi sỹ mơ màng, lãng đãng chạy theo những tà áo trắng
như đàn bướm của các nàng nữ sinh Đồng Khánh bay lượn trong nắng vàng, lấp lánh
long lanh…
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Tâm Nhiên
Quê quán: Bên dòng sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Bây giờ dạy học ở hải đảo Lại Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Sống độc thân trên đồi Vô Trú Am giữa đại dương bát ngát.
DĐ: 0904 536 286
Email: tamnhien@gmail.com
_____
LÊ SA ĐÀ HÒA ÂM CUNG BẬC THÂN YÊU
Tâm Nhiên
Quê quán: Bên dòng sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Bây giờ dạy học ở hải đảo Lại Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Sống độc thân trên đồi Vô Trú Am giữa đại dương bát ngát.
DĐ: 0904 536 286
Email: tamnhien@gmail.com
_____
LÊ SA ĐÀ HÒA ÂM CUNG BẬC THÂN YÊU
Tâm Nhiên
Ơi dòng Hương hỡi dòng Hương
Hiển linh mong chỉ hộ đường giúp ta
Phải chăng thị hiện đó mà
Mười phương là một – Một là mười
phương
Lê
Sa Đà đã nói như thế, về quê hương mình. Sông Hương, núi Ngự là nơi chốn thi sỹ
sinh ra đời, từ năm 1946. Suốt một thời thanh xuân rực rỡ, thở nồng nàn, mát
rượi, dưới mái trường Quốc Học, chàng thi sỹ mơ màng, lãng đãng chạy theo những
tà áo trắng như đàn bướm của các nàng nữ sinh Đồng Khánh bay lượn trong nắng
vàng, lấp lánh long lanh…
Từ
cái đẹp sơ nguyên, thanh thoát đó, vô tình đã xui khiến chàng tuổi trẻ sớm cưu
mang, hàm dưỡng và tựu thành một hồn thơ say đắm, đầy nhạy cảm giữa mười phương
trời lữ thứ...
Sự
cảm xúc, rung động thuở đầu đời, có một sức mạnh lạ thường, khiến bừng cháy lên
ngọn lửa rực ngời sáng tạo, qua cung bậc lung linh tình mộng, tình thơ, tình
đời, tình đạo... Ngọn lửa sáng tạo thi ca ấy, cháy mãi đến tận bây giờ, trên
Lầu Gió, ở thị trấn Cư Jút, thuộc tỉnh Đăk Nông xa ngút phương này:
Lầu ơi, gió lặng đêm nay
Nghe lời tự hoạ mà say ai nằm
Bao năm rồi có tịnh không
Tịnh
không – không tịnh – cũng chừng đó thôi
“Cũng chừng đó
thôi”
là một nhận định tỉnh táo, dễ dãi, sao cũng được. Thôi kệ ! Mặc kệ ! Hỏi cho có
hỏi, chứ thực ra thi nhân đã cảm nhận rõ có không, tịnh động, mộng thực, đúng
sai, phải trái… cũng chỉ là hai khái niệm của một thực tại bản tâm mình. Cho
nên, chàng có một thái độ sống nhập cuộc, chấp nhận tất cả, đến nỗi sẵn sàng tự
nguyện vào nơi chốn khốn cùng, ngục tù của trần gian u tối, lao lung:
Ta
muốn vào địa ngục
Sao người lại không cho?
Sống đây chừ ẩn ức
Đến bao giờ thăng hoa!
Địa
ngục trần gian đang vây khổn bốn bề đến ngột thở ra đó, chàng thi sỹ đang ở
trong sự khổn vây, lùng bùng, ẩn ức, bực bội đó rồi. Tuy biết thế, nhưng cũng
cường điệu nói một cách hùng hồn, khí phách cho vui rứa thôi. Dù chưa thăng hoa
trên cảnh giới tự tại, giải thoát, thi nhân vẫn tự tri, biết rõ chính mình, sau
khi băng qua Một Mùa Địa Ngục như thi
sỹ kỳ dị Rimbaud, kẻ lữ hành cô độc bên kia chân trời xa xăm Pháp quốc.
Thật
không ngờ được, vượt qua đằng đẵng suốt 70 năm trời đầm đìa máu lệ, Lê Sa Đà,
nhà thơ cô đơn của chúng ta, đã chạy qua nhiều sa mạc cát bỏng, hư vô, khô cằn
trên mặt đất, đã giáp mặt, cận kề với sinh tử, từng thấm thía, quằn quại, thế
nào là khổ đế, từng ôm trọn vò rượu điêu linh mà nốc cạn chén đắng tồn sinh cay
xé, uống hết nỗi sầu vạn đại thế nhân… Thế mà tâm hồn vẫn lâng lâng, cảm xúc,
rung ngân, rạt rào, tuôn chảy suối nguồn thi ca tràn lan, lai láng, miên man:
Trà sớm uống nhà bạn
Trăng khuya ngắm một mình
Hơn nửa đời lận đận
Trăn trở chuyện Tử Sinh
Sinh
tử là việc lớn, chưa giải quyết được. Thành thử, ở đây, chúng ta hãy thong dong
xem lại những chuyện nhỏ của người thi sỹ “hơn
nửa đời lận đận” như thế nào?
Đầu
năm 1966, vừa đúng 20 tuổi, chàng tuổi trẻ bắt đầu bỏ xứ ra đi, dấn thân vào
cuộc lữ. Từ Huế vào Sài Gòn để tiếp tục con đường học vấn ở mấy Đại học Sài
Gòn. Rộn ràng, gian nan, vất vả qua các nhà trọ sinh viên. Chứng kiến biết bao
nhiêu chuyện nhân tình thế thái, đương đầu với tồn sinh bức bách, cùng cực…
nhưng lòng vẫn đầy hào khí của kẻ lên đường, dang tay đón nhận bất cứ cơn gió
chướng nào từ biển đời thổi tới.
Thời
kỳ này, nhà thơ được tiếp xúc với nhiều tư tưởng lớn như Krishnamurti,
Hedegger, Nietzsche, Henry Miller, Hermann Hesse, Suzuki, Nikos Kazantzakis,
Bùi Giáng, Nhất Hạnh, Phạm Công Thiện, Nguyễn Đức Sơn, Tuệ Sỹ… Vì thế, nên tinh
thần cũng phấn chấn, hào hứng, bừng dậy bao ý tình hân hoan, sảng khoái, phóng
dật, chất ngất hồn bay lãng đãng ngát mênh mông…
Sống
giữa thời buổi loạn ly, chiến tranh xảy ra dồn dập, bủa vây tứ phía, đành phải
xa lìa bút nghiên, vì lệnh tổng động viên, đi lính tráng nửa chừng. Cũng may,
không phải ra chiến trường mà được giữ lại giảng dạy, huấn luyện ở các trường
quân sự bộ binh, nên có thời gian nhiều nghiên cứu sách vở, đọc hết Đông tây
kim cổ... cho đến năm 1975.
Rồi
đến giữa năm 1978, sau khi bị đi cải tạo về, nhà thơ đưa cả gia đình từ Huế lên
núi rừng Đăk Lăk, dừng chân ở thị trấn Cư Jút, sớm chiều nghi ngút khói sương
mù, định cư từ đó cho đến ngày hôm nay.
Ngày
sinh nhật, nhân dịp 64 tuổi, thi nhân nhìn lại cuộc hành trình lưu linh lạc địa
của mình, sau hơn 60 năm, một cách thâm trầm:
Năm nay tớ đã sáu mươi tư
Rằng đúng rằng sai tớ cũng ừ
Oán cũ nguyện lòng xin dứt sạch
Ân xưa thề giữ mãi tâm tư
Ngày ngày sinh sống bằng nô yes
Tối tối tâm tình với cổ thư
Bạn bè tâm đắc nay thưa thớt
Gió lạnh ngoài hiên vẫn như như…
Tự
trào như thế, nghe ra cũng vừa tiêu sái vừa ngậm ngùi, vừa phong lưu vừa hàn
sỹ, vừa ấm áp tình bằng hữu vừa lạnh lẽo, một mình một bóng, hiu hắt, cô liêu:
Chiều nay chiều nay… Ta không uống
rượu
Mà sao! Ta lại ngật ngừ say
Chao ơi! Trống vắng ơi bằng hữu
Nốc cạn dùm ta cảnh giới này
Cảnh giới này là cảnh giới tự tâm trầm lặng,
cô đơn rờn lạnh, cô quạnh cóng buốt. Nỗi sầu sâu hun hút, buồn tênh giữa tuế
nguyệt man thiên đến rũ rượi hồn say. May mắn thay ! Giữa trận sầu vạn đại, tê
tái đó, một hôm giữa trời khuya sương phủ nhạt nhòa, nhà thơ bỗng nghe tiếng
gầm sấm sét của thiền sư Không Lộ, từ trên tuyệt đỉnh cô phong vọng vang về.
Làm bùng vỡ khối âm u, mù mịt, đang bủa giăng nặng nề trong tâm thức chập chờn:
Đêm nay tuyệt đỉnh cô đơn
Gọi nhau... thì ngại dỗi hờn... rằng
khuya
Hú lên...ngút tận sao thưa
Cả trời đất lạnh – Ai vừa lắng nghe?
Thi nhân đang nghe tiếng gầm, tiếng hú... đến
bàng hoàng, thảng thốt, nên sững sờ, tự hỏi: Ai vừa lắng nghe? Chứng tỏ một tâm trạng đang hoang mang, bối rối
như nằm mộng giữa ban ngày…
Ngày
tháng lặng lẽ dần trôi qua, sớm chiều khuây khỏa, nhờ đám học trò bé dại, thơ
ngây. Dạy học Anh văn tại nhà, thỉnh thoảng dạo rong đây đó, quanh vùng thượng
du cùng với thi sỹ Dzạ Lữ Kiều. Nhiều khi lang thang lên buôn làng, thôn bản,
đùa rỡn, chọc ghẹo mấy cô em mọi nhỏ và tất nhiên là mần thơ. Chỉ còn có thi ca
là niềm vui duy nhất, là linh dược mầu nhiệm đưa thi nhân thoát chết, vượt qua
tử thần trong những trận mê đồ, gần như cùng đường, tuyệt lộ giữa ngày tháng
mang mang:
Ta những tưởng mãi đắm mình trong
Tuyệt tình cốc
Rồi tháng ngày chăm sóc cội hoàng mai
Em hiện đến một sớm nào thoáng chốc
Tạo men đời cho bến mộng xôn xao
Chao ơi! Nàng thơ diễm tuyệt hiện đến, “tạo men đời cho bến mộng xôn xao” khiến
cho thi nhân xuất thần, chuếnh choáng, bay bổng, phiêu diêu trong Cơn Mê Chiều:
Em phố Hội thẹn thùng hoàng hôn
xuống
Đau thời gian vương vấn ánh trăng rằm
Dẫu vẫn biết Tử Sinh là chuyện lớn
Dù một giây không ân hận trăm năm
Em phố Hội chiều nghiêng nghiêng lịch
sử
Thương mùa xuân mà an phận mùa đông
Thèm một chút níu thuyền tình tâm sự
Ôi trần gian tha thiết ai ôm nồng
Em phố Hội chừ dáng gầy màu nhớ
Nợ và duyên ai biết đến khôn cùng
Em phố Hội cơn mơ chiều đầm thấm
Người xa ơi lạnh ấm ngọt bùi
Em phố Hội em phố Hội
Cơn mê chiều dâng núi
Cao nguyên xa… Xa ngút xa ngàn
Nàng thơ bên bến sông Hoài, nơi phố cổ Hội An
huyền mộng ấy đã hiện về trong giấc chiêm bao của thi sỹ vào một chiều bữa nọ,
gây chấn động dị thường, nên đã hình thành thi phẩm Cơn Mê Chiều, phiêu nhiên hồn ngây ngất giữa thực và mơ...
Mở
đàu tập thơ, Lê Sa Đà bộc bạch đôi lời: “Hơn
mười năm rong chơi trong cuộc lữ, là để thể nghiệm một Năng Lượng Căn Bản của
nhân sinh. Mà Cơn Mê Chiều là một khía cạnh hiện thực...” Năng lượng căn
bản của nhân sinh là gì? Thi nhân không nói, để tự mỗi người khám phá ra, qua
những vần thơ gợi mở, khơi vơi, dặt dìu, phiêu hốt:
Em hiện đến trên bàn tay năm ngón
Tiếng mèo kêu tha thiết ngoài hiên
Chút cực lạc ảo hư dữ dội
Rồi ba nghìn thế giới đảo điên
Chút cực lạc gì mà dữ dội, khủng khiếp thế?
Làm cho đảo điên khắp cả ba nghìn thế giới? Phải chăng, đó chính là tình yêu,
tính dục? Nguồn năng lượng căn bản,
cốt yếu của toàn thể hoạt động nhân sinh đó, hình như từ xưa nay, chưa có ai
định nghĩa được tình yêu, tính dục là chi? Chỉ có đại văn hào Mỹ Henry Miller,
viết cả một cuốn sách Thế Giới Tính Dục
vô cùng độc đáo. Rồi biết bao triết gia, văn nghệ sỹ khắp thế giới cũng đồng
cảm, chia sẻ, hào hứng, tưng bừng sáng tạo. Bắt đầu từ sự rung động khôn dò, do
năng lực tình yêu, tính dục rạt rào, ảo dị, huy hoàng mang lại. Mang lại cả
Trời Thơ Đất Mộng, sống chết cùng khiêu vũ trên cung bậc xuất cốt, tiêu dao...
Đạo
sư Krishnamurti cũng từng phát biểu: “Có
thể yêu thương, nhưng không mắc vướng vào một người nào, vào bất cứ gì. Đó là
mức chí thiện của đời sống tình cảm. Phải tách lìa tất cả nhưng cũng vẫn thương
yêu tất cả, vì tình yêu thương là sự bừng nở của cuộc sống.”
Còn Lê Sa Đà thì cũng tuý luý trào dâng cơn
hải triều yêu thương hết mình và chấp nhận tình yêu thương đó, dù cho có tàn
xiêu, lảo đảo, long đong:
Cõng em đến cuối cuộc đời
Còng lưng vẫn nở nụ cười trên môi
Kiếp này phải trả xong thôi
Hết duyên nợ vẫn phận người kiếp sau
Đâu là chân tướng của tình yêu? Thực ra, tình
yêu, tính dục là nguồn năng lực vô lượng, vô biên mà mỗi người sử dụng một cách
riêng biệt, theo hiểu biết, kiến thức của mình về nó. Cho nên, có kẻ thăng hoa,
xuất thần, nhập diệu bay lên tận đỉnh trời du hý tam muội, tự tại, vô ngại hồn
lên đỉnh trời vô ngại, tự tại, lại có kẻ bị chìm đắm, trầm luỵ dưới bùn lầy
dung tục, nhục cảm, đam mê, ê chề, sầu thảm, khổ đau… đều do mỗi cá nhân tự quyết
định, thế thôi.
Tình yêu cũng là một thứ nghiệp lực, nhiều
đời nhiều kiếp đã kết thành duyên nợ ba sinh. Không thể một sớm một chiều mà
cởi trói, tháo dây ràng buộc được. Trái lại, càng ngày càng như muốn, như thích
tạo nghiệp thêm nữa chứ, phải không em:
Kim Long răng khểnh có người
Nửa đêm nghe dạ tiếng cười an nhiên
Ta về đổi tuổi thay tên
Chiêm bao chợt bỗng lạc miền nhớ
nhung…
Nhớ nhung, “ôi nắng vàng sao mà nhớ nhung…” sầu thương em đến tận cùng trong
mộng mị, chiêm bao, trong da diết, miên man, quá đỗi bần thần:
Ngẩn ngơ hình bóng cũ
Nao lòng trăng xưa nay
Gió về mây ấp ủ
Mộng đêm này đêm mai
Ngày xưa không hẹn ước
Ngày sau khôn tương lai
Bây giờ chừ không được
Xót xa gầy liêu trai
Dòng Sérépok rạo rực
Bờ cát loạn có hay
Suối Đa Mê hậm hực
Tình ơi! Ai vương say
Ai say, ai tỉnh trong cuộc tình liêu trai chí
dị như Bồ Tùng Linh đắm đuối cuộc hoang mê, ngọt ngào bao ảo dị:
Thế thôi thôi thế thôi thì
Nguyệt hoa hoa nguyệt đêm ghì chiêm
bao
Nẻo về rõ chút hư hao
Liêu trai chí dị gió vào bên song
Liêu Trai Chí Dị là tác phẩm độc đáo
của Bồ Tùng Linh, kể những chuyện nam nữ yêu nhau, giao hoan nhau giữa ngày đêm
chập chùng mộng thực, không phân biệt là người hay ma nữ, tiên nữ nữa. Bên
trong song cửa là thế giới của hai người, quên đi bản ngã mà cùng say đắm, mặn
nồng, mê ly, kỳ lạ:
Ta chừ trong bến sông Mê
Xin em chút dục thoả thê cơn nồng
Sóng triều dâng sóng triều dâng
Từ bi tế độ trong ngần tình em
Chàng thi sỹ khiêm tốn, hồn nhiên nói cho vui
vậy thôi, chứ đã bước qua miền kinh nghiệm, lịch lãm nhiều rồi. Kẻ lịch duyệt,
hảo hán, giang hồ, đôi khi cũng thốt lên choáng váng, tần ngần:
Cõi phù vân cõi phù vân
Thoáng say cơn mộng mộ phần thi ca
Em là Phật hay là Ma?
Thì ra thị hiện một toà chân như
Em đó ư mộng tàn dư
Bảy mươi năm thiếu - Ta chừ còn… mê
Đường xưa mây trắng bay về
Bảy con chim… có một bề thong dong
Ơi người giặt áo bên sông
Có khi mô? Nước sông Vân gợn buồn
Thôi em một chút tình suông
“Bảy mươi năm thiếu – Ta chừ còn…mê” Ừ thì cứ : Mê man,
mê ám, mê cuồng. Mê si, mê dại, mê suông… thôi mà. Cứ mê chơi, có hề chi mô,
phải không người em gái, tự nhận là Ma Đăng Già:
Em tự bảo: Ma Đăng Già
Không – Em đúng Phật Bà Quan Âm
Ai người hái nụ tầm xuân
Riêng ta chỉ ước được cầm “gương sen”
Trong Phật giáo Mật tông tả phái Tây Tạng,
các đại sư chỉ cái chỗ kín đáo nhất của đàn bà, con gái là đoá hoa sen thanh
khiết, có thể sinh ra những bậc thánh hiền. Cho nên, chàng thi sỹ mê gái này,
sung sướng, tha hồ ước ao cầm được cái
gương sen đó chăng?
Ma
Đăng Già, biểu tượng cho năng lượng dục tính, còn Bồ tát Quan Âm, biểu tượng
cho năng lượng yêu thương, đại bi tâm. Tuy gọi tên có khác nhưng thực ra, vốn
huyền đồng trong nguyên lý nhất như, nơi tự tánh bình đẳng, chẳng gì khác biệt
nhau.
Thấu
nhập cảnh giới tình yêu tối thượng này rồi, vì thế, thi nhân cất lên tiếng hát
dục lạc ca qua câu hỏi khốc liệt, tuyệt cùng cho những ai còn bị dục tính ám
ảnh nặng trì:
Khi Thuý Kiều trút quần với Mã Giám Sinh,
với Sở Khanh, với khách làng chơi, với Thúc Sinh, với Từ Hải và… với Kim Trọng,
thì:
Ai giao cấu
Ai giao hợp
Ai giao hoan
Ai giao dục
Ai giao nộ
Ai giao ố
Câu trả lời xin dành lại cho Bùi
Trung Niên thi sỹ.
Nhưng bây giờ, chàng Bán Dùi không
còn nữa, đã rong chơi qua cảnh giới tiêu dao nào khác
Đành đoạn, đi làm phiền lão già Marpa
( thầy của Milarepa ) thôi
Và rồi, cụ già đáo để này lại bán cái
cho Osho
Không cần phải đợi đại sư Marpa và hành giả
Osho trả lời, chúng ta cũng có thể hiểu rằng, giây phút ly kỳ, gay cấn đó, chỉ
có nguyên lý âm dương, năng lượng dục tính đang hoạt động. Tự nhiên vây, vắng
mặt tốt xấu, đúng sai, phải quấy… ở đây.
Muốn hiểu Marpa là ai, thì phải tìm đọc lại
tác phẩm Milarepa Con Người Siêu Việt của
Rechung, do Đỗ Đình Đồng dịch, An Tiêm xuất bản năm1969 tại Sài Gòn.
Marpa,
hành giả Mật tông, Tây Tạng, tuy cũng có vợ con như mọi người, nhưng là một bậc
đại sư thượng thặng, chứng ngộ cao vời. Bằng tâm lực phi thường đã hoá độ cho
Milarepa, một kẻ sát nhân, trở thành một con người siêu việt, hoàn toàn giác
ngộ.
Milarepa
cũng là một thi nhân, đã cất cao tiếng ca hùng tráng, vang động khắp vùng thâm
sơn cùng cốc trên đỉnh ngàn Hy Mã Lạp Sơn. Giọng thơ bất hủ ấy, sau này được
các đệ tử góp lại thành thi phẩm tuyệt vời Gởi
Lại Trần Gian, bay rợp vàng qua cả ngàn năm, bát ngát lồng lộng sương khói
trời mây...
Còn
Osho, một đạo sư độc đáo thời hiện đại. Nổi bật lên trên bầu trời đạo học thâm
uyên về triết lý nhân sinh đã nêu cao đề tài dục tính lên bình diện giải thoát
tâm linh. Tính dục là một pháp như tất cả vạn pháp, có thể quán chiếu đến thậm
thâm vi diệu. Từ đó, bùng vỡ ra chân diện mục của con người.
Nói
đến tính dục thì hầu như đa số kẻ tầm thường trong thiên hạ đều sợ hãi, dị ứng,
né tránh. Chỉ có những căn tánh thượng thừa mới dám giáp mặt, nhận diện, trực
chỉ vào cái cốt tử dục tính này, như trường hợp của các đạo sư Marpa và Osho đã
thực hiện.
Vậy
thì, có vợ con (nghĩa là sử dụng dục tính) hay độc thân, không thành vấn đề
trên con đường trở về cố quận Chân Như Tự Tánh của mình. Thích thú điều đó, cho
nên Lê Sa Đà cứ lãng mạn trong tình yêu vi diệu, siêu thoát qua tình dục, rúng
hồn xương xảu, máu me và rốt cuộc, éo le thay, chàng lại muốn:
Ta không muốn em là bạn
Bởi vì ta có nhiều bằng hữu thuỷ
chung
Ta không muốn em là em gái
Bởi vì ta có nhiều đàn em phái nữ
Ta không muốn em là người tình
Bởi vì ta yêu rất niều thứ
Một mái tóc
Một nụ cười
Một dáng đứng
Một điệu ngồi
Ta muốn em là: Là Mẹ
Để ta có những bữa ăn mắm cà với ruốc
Vá cho ta từng tấm áo
Giặt cho ta những chiếc quần
Cắt giùm móng tay móng chân
Và thức tỉnh cho ta
Từng hơi thở chánh niệm
Nhất là trong giờ… lâm chung
Trước khi nhắm mắt lìa đời, trước khi chết,
hạnh phúc nhất là có Người Yêu Dấu của mình đứng bên cạnh phải không? Lòng thi
nhân cảm nhận như thế, nên hồn nhiên gọi Người Yêu của mình bằng Mẹ, bằng Mẫu Thân cũng là điều
dễ hiểu. Giống như trường hợp thi sỹ Bùi Giáng, vì quý yêu quá chừng, quá đỗi
sư cô Trí Hải, tức Phùng Khánh mà gọi là Phùng Khánh mẫu thân bát ngát đó thôi:
Bởi vì rằng... của người ta
Gọi Em thì ngại gọi Bà bị la
Nghĩ gần rồi lại nghĩ xa
Gọi Chị cho tiện… thế mà mắng to
Nhớ xưa Giáng gọi ni cô
Mẫu thân Phùng Khánh hay ho vô cùng
Chừ ta bắt chước Bùi quân
Rống lên: Mẹ - con cưng đây nè
Được bú mớm được mân mê
Được làm trẻ nít được về tuổi xuân
Đây là... một cuộc... hóa thân
Hóa thân như triết gia Đức Nietzsche, trải
qua ba biến thể : Bắt đầu từ lạc đà trở thành sư tử và cuối cùng là hài nhi.
Thi sỹ Lê Sa Đà cũng muốn làm hài nhi chưa tắm sông nào, còn ngây thơ trong
trắng, chạy về bú vú mẹ hiền, sau những chiều tà tha thẩn, nô đùa, chạy nhảy,
rông chơi...
Người
thi sỹ ưa sáng tạo ra cái tân kỳ, mới mẻ, mới lạ, nên Bùi Giáng hay Lê Sa Đà có quyền gọi Người Yêu của mình bằng
Mẹ, bằng Mẫu Thân cũng là điều thú vị, chứ chẳng hề sai quấy chi cả.
Sa
mù bàng bạc, bảng lảng dưới trăng rằm. Nằm giữa vườn Phong Nguyệt Hữu ở thị
trấn Cư Mgar, trên cao nguyên Đăk La8k, đọc thơ Lê Sa Đà, tôi đã phát hiện ra
một điều dị thường là nhà thơ xem Tình Yêu, Tính Dục như một công án hiểm hóc
mà suốt ngày đêm, anh là hành giả, luôn luôn hành trì, khởi nghi tình miên mật
và cũng từ đó, vô hình chung, muốn khơi dậy, khích lệ mỗi người trong chúng ta
tự quán chiếu, tham công án Tình Yêu, Tính Dục này. May ra, một ngày kia, bất
ngờ sẽ bùng vỡ, thấu thị bản lai diện mục, cái mặt mũi đích thực , xưa nay của
chính mình...
Tịch
nhiên trong niềm uyên tư giữa tử sinh trường mộng đó, cuộc lữ phiêu bồng, không
chỗ trú đã xui bước chân du sỹ này,quay về nơi xứ miền cao nguyên Cư Jút, Đăk
Nông nhiều lần rồi. Mười lăm năm trước, một chiều phiêu linh, rộn rã, tôi dừng
gót lữ tại nhà Lê Sa Đà. Tay bắt mặt mừng, mặc dù trời đang mưa tầm tã, anh vẫn
kéo ngay ra quán nhậu, bên góc chợ thị trấn Cư Jút, uống cho cạn hét nỗi niềm
thiên cổ, cho tót vời vũ điệu tiêu dao du. Bữa đó, cũng có thi sỹ Dzạ Lữ Kiều
tham dự nữa.
Khuya
mưa ấy, nằm trên Lầu Gió se se lạnh tại nhà anh, tôi đã làm bài thơ Chiều Cư
Jút này, như một tặng vật thân tình gởi anh, trước khi trời rạng sớm, lại tiếp
tục lên đường, hành viễn xứ, phiêu diêu:
Chiều mưa Cư Jút mưa mù mịt
Ba thằng chuếnh choáng cụng ly nhau
Nghìn dặm cách xa chừ mới gặp
Nên chi rót mãi xuống vui sầu
Bạn uống Khuất Nguyên dòng trong đục
Nghẹn ngào Đỗ Phủ chén xót xa
Ta cạn một bầu trăng Lý bạch
Cuồng ca Bùi Giáng hát khề khà
Cư Jút chiều mưa trời đất lạnh
Rất may còn một góc quán này
Chắc mưa cảm động cùng cô lữ
Trút sạch bụi đường ở nơi đây
Say chút muôn trùng tình thi sỹ
Tình thơ nước chảy với mây trôi
Ngậm ngùi chi nữa cơn huyễn mộng
Cứ trôi và chảy suốt muôn đời.
(Viết tại Phong Nguyệt Hữu, Cư Mgar, Đăk Lăk,
chiều 29. 10. 2016)
----
Ghi chú:
Chữ nghiêng: Trích thơ Lê Sa Đà, trong tập
thơ Cơn Mê Chiều ( 8. 2016 )
----
© Tác giả giữ bản quyền. . Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 10/02/2017
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét