Home
» Lý luận phê bình
» Nhà thơ Chữ Văn Long: Đọc bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến (Hà Nội)
Nhà thơ Chữ Văn Long: Đọc bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến (Hà Nội)
Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2016
Bài thơ
“Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn thuở. Làng thơ
Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời muốn
mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh cao,
đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà
thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước
hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói.
Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi
chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú…
Tác giả Chử Văn Long
Địa chỉ: Thôn 2, Vạn Phúc, Thanh Trì, Hà Nội.
Điện thoại: 01658818263
Email: haicv08@gmail.com
_____
ĐỌC BÀI THƠ “QUÊ NGHÈO” CỦA ĐẶNG XUÂN XUYẾN
Nhà thơ Chử Văn Long
QUÊ NGHÈO
Quê tôi nghèo lắm
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài
những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ
hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào
giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu
bíu lời ru.
Quê tôi nghèo lắm
Phiên chợ còn èo ợt
nghèo hơn
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Í ới mời chào cao hơn
mời cỗ
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ
già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá
mắm
Lũ trai mặt mũi mốc
meo
Gặm nhấm nỗi đau
nghèo khó
Nơm nớp âu lo đời như
chiếu bạc
Thương con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên
đồng đất của mình.
Quê tôi nghèo lắm
Nước mắt rơi từ thời
chị Dậu
Tiếng oan khiên từ
thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Chiếc cổng làng dựng
lên thật đẹp
Sừng sững bê tông cốt
thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Chiếc cổng làng thành
tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.
Quê tôi nghèo
Nghèo cả giấc mơ...
Hưng Yên, chiều 29 tháng 12
năm 2014
Là
người Việt Nam không ai không biết tới cảnh nghèo, cái đói đã đeo bám
dân tộc ta từ những ngàn đời. Cảnh đói ăn, thiếu mặc, bán vợ, đợ con đã in đậm
vào những trang văn, những bài thơ từ thuở ông cha biết dùng chữ viết ghi lại
cùng con cháu hôm nay. Nhiều câu thơ, trang văn đã làm rơi lệ người đọc, thương
cho số phận người xưa, lại thương cho phận số chính mình. Cuộc cách mạng năm
1945 giành lấy chính quyền từ chế độ vua quan phong kiến, thực dân cai trị,
người nghèo làm chủ lấy vận mệnh của mình với bao hy vọng đẹp tươi, xây dựng
một xã hội ấm no, công bằng, người không còn bóc lột người… nhưng con đường ấy
chưa biết bao giờ tới đích. Sau những bộ mặt đô thị, thành phố tập trung được
xây dựng khang trang đẹp đẽ, vẫn còn những làng quê chưa thoát khỏi cảnh nghèo:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp
hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặt chat
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ…
Bộ
mặt đời sống mỗi vùng quê mỗi nơi tuy có khác nhau nhưng nhìn chung vẫn chưa
nhấc nổi bàn chân thoát khỏi cái vòng nghèo khó. Bây giờ không còn đói dài đói
rạc, không còn quần mảnh áo manh, sự nghèo khó lại mang bộ mặt khác. Nhìn từ
bên ngoài
Chiếc cổng làng dựng lên thật
đẹp
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài…
Chiếc cổng làng thành
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ!
Còn
đời sống thật bên trong, văn hóa, hiểu biết, kiến thức, khoa học, tục lệ, lễ
nghi… vẫn chưa nâng con người thêm lên là bao. Thật buồn cười, hàng ngày qua
đài báo ta cứ nghe ra rả những lời nói đẹp: “cán bộ là đầy tớ của nhân dân!”
nhưng nhìn vào anh chị cán bộ nhỏ bé nhất của làng ai cũng quần là áo lượt, còn
nhân dân thì áo đẫm mồ hôi, quần quật nắng sương lại được tiếng là ông chủ của
đất nước. Trong khi mảnh đất hẹp của chính mình vẫn cày cuốc, người tà có thể
lấy đi để mua bán đầu từ cho những tập đoàn tư sản nước ngoài năm, bảy chục
năm, lấy tiền bỏ túi nhà nước thì ít, còn túi những ông bà đầy tớ, chỉ một hai
khóa nắm quyền, là có thể tậu nhà mặt phố, thị trấn, thành người của lớp giàu
sang. Còn dân đen thì phải rời nhà, rời cả mồ mả tổ tiên và được cái tiếng là
người có quyền làm chủ… Trong một bài thơ Đặng Xuân Xuyến khó nói hết điều này
nên sau những câu thơ khắc họa cái nghèo rất thực:
Quê tôi nghèo lắm
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
Gặm nhấm nỗi đau nghèo khó
Mà cuộc sống khổ nghèo trì trệ, tù
đọng ấy cũng đâu yên ổn:
Nơm nớp âu lo
Đời như chiếu bạc
Nay hãy biết nay, còn mai chưa biết
thế nào.
Hình
ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng khoai lúa
cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố. Nước ta
với hơn ba nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới. Mỗi gia
đình ở đây còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc phao nổi
nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua ngày. Bỗng
nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công nghiệp đem
được lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây nên vụ ngộ
độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa tìm được
nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển. Nỗi đau dân
chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo ở những làng
quê đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như chiếu bạc”
mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải đất miền
biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ đồng cảm
với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy vẫn cười
vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không còn ấm áp
“Tắt lửa tối đèn” như xưa.
Giữa
không khí thơ như thế bài thơ của Xuyến như đốm lửa tình người vẫn còn lửa hồng
than đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật phố phường mà còn gửi
được hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo
hơn
Răm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
… Chợ quê xác xơ già cỗi
Bài
thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn thuở. Làng
thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời
muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh
cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những
nhà thơ có tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám
rước hội làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói.
Tình người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi
chạm phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú…
Hà Nội, ngày 16 tháng 6 năm 2016
Nhà thơ Chử Văn Long
Đặng Xuân Xuyến Gửi đăng.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 16/06/2016
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét