Giác Tâm trầm tịch cõi thi ca – Bài viết Tâm Nhiên (Kiên Giang)
Thứ Năm, 21 tháng 4, 2016
Từ thuở
nọ, thi sỹ Giác Tâm mới vừa mở mắt chào đời đã nằm võng đong đưa giữa trùng
điệp phù vân lãng đãng, ngút ngàn sương khói chung quanh, được hun đúc, tiếp
cận với hồn thiêng sông núi uy linh, hùng vĩ nên tâm hồn thi sỹ tự nhiên hàm
dưỡng trong bầu khí chất rất mực thuần khiết, nguyên sơ.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Kiên Giang ngày 21/04/2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Tác giả Tâm Nhiên
Quê quán: Bên dòng sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Bây giờ dạy học ở hải đảo Lại Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Sống độc thân trên đồi Vô Trú Am giữa đại dương bát ngát.
DĐ: 0904 536 286
Email: tamnhien@gmail.com
_____
GIÁC TÂM TRẦM TỊCH CÕI THI CA
Tâm Nhiên
Quê quán: Bên dòng sông Cẩm Lệ, Đà Nẵng
Bây giờ dạy học ở hải đảo Lại Sơn, Kiên Hải, Kiên Giang.
Sống độc thân trên đồi Vô Trú Am giữa đại dương bát ngát.
DĐ: 0904 536 286
Email: tamnhien@gmail.com
_____
GIÁC TÂM TRẦM TỊCH CÕI THI CA
Tâm Nhiên
Từ
thuở nọ, thi sỹ Giác Tâm mới vừa mở mắt chào đời đã nằm võng đong đưa giữa
trùng điệp phù vân lãng đãng, ngút ngàn sương khói chung quanh, được hun đúc,
tiếp cận với hồn thiêng sông núi uy linh, hùng vĩ nên tâm hồn thi sỹ tự nhiên
hàm dưỡng trong bầu khí chất rất mực thuần khiết, nguyên sơ.
Thơ
phát ra từ đó, nhẹ nhàng như hơi thở, vừa lâng lâng bay bổng vừa bồng bềnh,
thênh thang… Tiếng thơ ngân dài, đồng vọng lên từ phương lòng trong trẻo đầy
chim ca lảnh lót hòa lẫn suối khe róc rách reo vang. Ngàn hoa nắng trổ ngát
hương trời vạn cổ dưới những vùng thung lũng mù xa, chập chùng bóng rừng sâu
hun hút, hoang lạnh buốt mưa chiều. Thơ bay phiêu phất hồn trăng vạn đại, vụt
hiện lóe ngời thời nguyên thủy, sơ khai… Thần thái mang mang, thi sỹ đi về ngơ
ngác, ngạc nhiên trước sự huyền bí của cuộc sống muôn loài, vạn vật trên mặt
đất, trần gian rồi hoát nhiên bừng thấy ra cả trời thơ đất mộng bồi hồi:
Từng viên đá thấm mồ hôi
Đóa hoa tâm nở bên đồi mù sương
Đầu nguồn cuối bến sông Tương
Bàn tay của mẹ thơm hương xứ trầm
Vẫn còn đây đóa hoa tâm
Nghìn thu rụng tiếng nguyệt cầm đầu
non
Đầu non cuối biển vọng tiếng nguyệt cầm, rung
ngân bất tận một tiếng đàn trăng giữa thiên thu vời vợi… Khiến cho bất ngờ, mồ
hôi thấm từng viên đá sỏi ven đồi, thấm qua bàn tay gầy guộc của mẹ hiền vun
xới, chở che, đùm bọc, để rồi mọc lên tinh khôi một đóa hoa lòng trong trắng,
một đóa hoa tâm thầm lặng tỏa ngát hương trời giữa hoang vắng tịch liêu trên xứ
miền cao nguyên ngút ngàn mây trắng miên du, lãng đãng khói sương mù…
Đóa
hoa từ tâm, đóa hoa tuệ tâm ấy, một ngày kia đã hóa thân thành Giác Tâm, một
thi sỹ bình dị, đơn sơ nhưng vô cùng phiêu nhiên trên tuyệt đỉnh trời thi ca
lồng lộng…
Không
biết tự bao giờ, dường như là năm 1956, chàng thi sỹ ra đời, đi về xuất hiện
giữa tồn sinh, nơi sơn thôn Cỏ May, chốn Trại Mộ, Biển Hồ Trà, thuộc tỉnh Gia
Lai huyền mộng này. Lớn lên giữa thượng nguồn núi đèo heo hút, rừng rú man dại, hoang vu, sớm chiều thấp thoáng mờ
sương khói phủ. Ru hồn thơ vi vu, vi vút theo suối thác, truông ghềnh đổ ầm
xuống buôn làng thượng du, reo vang rộn ràng, trào tuôn trôi cuốn, cuồn cuộn
chảy… Chạy nhảy nô đùa với cỏ nội hoa ngàn, thở cùng gió núi, mưa rừng, nắng
rậm giữa trời đất man thiên, rỡn bướm vờn hoa, lạnh ngút rờn sơn dã. Cho nên,
mạch ngầm thi ca trong lòng chàng thi sỹ chợt bùng vỡ, dâng trào, rào rạt nguồn
cảm hứng Mẹ Và Trăng:
Áo lụa mẹ choàng trắng trong như nguyệt
bạch, trăng đậu trên vai trên vuông áo ngắn dài. Lóm đóm hoa lóm đóm sao, mẹ
trẻ trung như thời con gái, bất chợt con thấy mình thơ dại, thật hồn nhiên như
thuở vào đời. Mẹ thân yêu của con của muôn đời mãi mãi, chở che con suốt cuộc
tử sinh này.
Một chút mây vẫn còn đang phiêu lãng và
chừng như đang hội tụ cùng trăng. Cõi vĩnh hằng mây trăng thinh lặng, rừng
thênh thang đêm mênh mang, lặng lẽ ngồi lặng lẽ thở, trầm tư về một thuở đi
hoang. Huyên thuyên nhiều chi thêm ngộ nhận, con trở về chợt dứt nói năng.
Theo mẹ đến chốn này để nhìn đời và để nhìn
mây. Đời trôi chảy như dòng sông dịch biến, mây hợp tan, tan hợp chưa hề… Con
thơ dại vẫn vầng trăng đó, tóc sương pha mây trắng vẫn đi về, trăng tháng chạp
sao mà tơ nõn, soi tỏ đêm dài và cội lão mai, trăng sáng quá lòng bình yên lạ,
ngẩn ngơ nhìn trời đất mới tinh khôi.
“Ngẩn ngơ nhìn trời đất mới tinh khôi” là cái nhìn sơ tâm,
cái thấy hồn nhiên, nguyên vẹn của hài nhi. Khi có cái nhìn ấy thì mọi sự, muôn
loài vạn hữu đều trinh tuyền, trong suốt, hiện ngời lên vẻ đẹp vô ngần Chân
Thiện Mỹ. Vẻ đẹp thanh tân Chân Thiện Mỹ đó, phải chăng chính là Tự tánh thanh
tịnh mà Lục tổ Huệ Năng đã phát biểu hay thiền sư Huyền Giác chỉ rõ Đương xứ
tức chân hoặc như thiền sư Lâm Tế nói là cái Tâm vô sự, cái Bản lai diện mục
của chính mình?
Kinh
điển đại thừa đã tuyên bố rõ ràng qua nhiều tên gọi : Như Lai, Diệu Tâm, Phật
Tánh, Tánh Không, Bồ Đề, Bát Nhã, Tuệ Giác, Niết Bàn, Chân Như, Chơn Không Diệu
Hữu, Tự Do Tự Tại… Tuy nhiều tên gọi khác nhau nhưng cùng một ý chỉ bản tâm
thanh thản, an nhiên, giải thoát mọi buộc ràng, phiền não, khổ đau thôi. Cái
tâm giải thoát ấy chẳng ở đâu xa mà vốn thường hằng hiện hữu, luôn luôn gần gũi
trong từng hơi thở của chúng ta, của tất cả sinh linh đang sống nơi cõi ta bà,
mang mang thiên địa giữa càn khôn, vũ trụ tuần hoàn này.
Nếu
ai sống được với Diệu Tâm, Tuệ Giác ấy là có ngay cái nhìn tinh khôi, cái thấy
mới mẻ, mới lạ và mới lạ, là Kiến tánh
thành Phật. Thành Phật là thành tựu cái Diệu Tâm đó, là lý sự viên dung
giữa thực tại đang là. Cõi ta bà sẽ hiện bừng ra cảnh giới huy hoàng Tịnh Độ,
an lạc Niết Bàn ngay lập tức. Sở dĩ đa số chúng ta không sống được với bản tâm
vi diệu ấy là vì chúng ta tự ý đánh mất nó đi, tự mình lơ đễnh, quên đi, tự
mình giam nhốt chính mình trong những cặn bã danh lợi, những ngục tù bản ngã ấu
trĩ, những đố kỵ nhỏ nhen, u ám, trầm trệ thái quá. Tự mình buông lung, buông
thả, chìm đắm trong bóng tối đêm dài sinh tử, hụp lặn giữa đục ngầu tham sân
si, trong mộng mị chiêm bao, ảo dị sa đà:
Ta đánh mất bởi vì ta lơ đễnh
Mãi xa xôi say mộng ảo phương nào
Hoa cỏ ấy xiết bao lòng tríu mến
Lắng lòng nghe hoa cỏ sẽ thì thào
Ta đánh mất bởi trầm tư thái quá
Lối đi về quên bẵng cả trăng sao
Mộng mị triền miên úa vàng hoa lá
Sông thương đây tơ tưởng núi non nào?
Lời bộc bạch lòng ta em đã tỏ
Nối tay nhau hàn gắn những nhịp cầu
Dòng sông xưa đôi bờ hoa nở đỏ
Tặng cho nhau quên hết tháng năm sầu
“Dòng sông xưa đôi bờ hoa nở đỏ” là một câu thơ thâm
trầm, tâm đắc mà thi sỹ Giác Tâm đã chọn làm đầu đề cho tập thơ sắp xuất bản
của mình. Lời bộc bạch hay lời Nguyện Ước
khơi vơi nọ, thi sỹ muốn gởi đến cho chư huynh đệ mười phương đang sống lưu
linh lạc địa, trên khắp quả địa cầu tròn trịa đang quay lông lốc giữa hư không
này.
Hãy
tự mình tỉnh thức. Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Hãy quay về quê quán ban sơ,
ngồi lại bên bờ xanh mướt thương yêu của dòng sông đời sống nhiệm mầu. Sầu đau,
phiền não từ vô lượng kiếp với bao đoạn trường tuế nguyệt liền biến tan, khi gã
cùng tử biết dừng gót chân nghiệp chướng, biết quy hồi cố xứ, theo nẻo về sâu
thẳm nguồn mạch, long lanh ánh tâm hồn:
Con lưu lạc từ ngàn xưa lưu lạc
Bỏ quê hương quên cả lối đi về
Đồi lộng gió tóc mẹ bay tóc bạc
Ngóng đợi con trăng khuyết đến trăng
tròn
Con nhớ mẹ tà áo bay áo trắng
Đưa con qua suốt cuộc tử sinh này
Cưỡng lời mẹ con uống nhiều giọt đắng
Chợt tỉnh say mộng mị vơi đầy
Rồi một ngày kia đi qua chùa cổ
Bỗng reo vui khi thấy dáng người
Mẹ hiện hữu cho trần gian vơi khổ
Cõi người ta nay đã có tiếng cười
Chiều cao nguyên bay qua ngàn mây
trắng
Chim thiên di về với cội nguồn
Hành lý đời từ nay không còn nặng
Xin gởi hồn mình theo tiếng chuông
buông.
“Xin gởi hồn mình theo tiếng chuông buông” theo giọng chuông
ngân nga, đồng vọng từ một ngôi chùa tuổi thơ, vô vàn yêu dấu cũ nơi quê nhà ở
sơn thôn Cỏ May hiu quạnh, cạnh đồi thông xanh biếc Biển Hồ Trà, khi nhà thơ
sực thấy ra bà mẹ trần gian ruột thịt của mình cũng chính là bà mẹ hiền Bồ tát
Quán Thế Âm đang trầm tịnh lắng nghe:
Mẹ về trên đỉnh mù sương
Tinh khôi áo trắng mắt thương nhìn
đời
Nước Biển Hồ có đầy vơi
Hải Triều Âm vẫn vọng lời đại bi…
“Từ nhãn thị chúng sinh” hay mắt thương nhìn cuộc đời là cái nhìn dịu
dàng, trìu mến, chan chứa đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, là hạnh nguyện thiết
tha, vô cùng, vô tận, vô biên, vô lượng thương yêu thập loại chúng sinh của mẹ
hiền Quán Thế Âm. Hạnh nguyện yêu thương vô điều kiện đó, nhà thơ Giác Tâm
thường xuyên nhắc nhở, khuyên bảo đàn em của mình tinh tấn thực hiện, hành trì,
áp dụng vào thực tế cuộc đời:
Em còn hiện hữu trong tôi
Trong từng phiến đá bên đồi mù sương
Đi qua cuộc thế vô thường
Trong em còn có mắt thương nhìn đời
Giọt mồ hôi với nụ cười
Hoa trên đá nở bồi hồi ngày qua
Mai này tôi có đi xa
Trái tim xẻ nửa Hồ Trà em ơi!
Mong em phụng đạo yêu đời
Đắp xây chùa cổ tuyệt vời nên thơ
Thay tôi em gắng phụng thờ
Nén hương tưởng Mẹ chiều về nghe em
Trong những đứa em tinh thần đạo vị ấy, đặc
biệt, có một sơn nữ chất phác, đôn hậu, thuần khiết với ánh mắt hiền hòa như
mặt nước Biển Hồ xanh. Trong nguồn suối yêu thương tương cảm, em đã được thi sỹ
tận tình giúp đỡ, trợ duyên cho em vào nếp sống tu tập thiện lành và khi trưởng
thành, em đã tung cánh chim rừng qua tận bên kia bến bờ đại dương bát ngát, bay
theo nghiệp mệnh của đời em. Thỉnh thoảng, em có về quê quán cũ trên đồi Cỏ
May, viếng Biển Hồ Trà, thăm suối thác, truông rừng và dừng bước phập phồng
trước ngôi cổ tự rêu phong giữa một ngày lễ hội chùa quê. Nơi một thời thơ dại
em đã lớn lên với biết bao Hoài Niệm
trong lai láng, bồi hồi:
Ngày vui bất chợt con buồn
Thầy ơi ! Con nhớ hồi chuông quê nhà
Nhớ chùa cổ nhớ cây đa
Nhớ đàm hoa nở Hồ Trà ngát hương
Nhớ xứ thượng nhớ mù sương
Nhớ từng gương mặt đoạn trường Thầy
ơi !
Ngày vui thoảng qua mất rồi
Riêng con kỷ niệm đầy vơi nỗi niềm
Cho con như là loài chim
Nhớ nhung vỗ cánh về tìm nguồn xưa
Con nguyện làm hạt nước mưa
Tưới trên quê mẹ sớm trưa khô cằn
Cho con được là ánh trăng
Đêm rằm về lại tung tăng quây quần
Cho con sống không vong thân
Biết mình hiện hữu hồng trần làm chi
Đường con đi đường Từ Bi
Trọn đời con nhớ khắc ghi bên lòng
Mai này nguyện ước tròn xong
Con xin trở lại cửa Không hầu Thầy
Tình thương, tình yêu là một điều kỳ diệu,
đòi hỏi chúng ta phải tâm chứng thì mới thể nhập rốt ráo cái tinh hoa của tình
yêu thương. Krishnamurti nói : “Tình
thương không phải là quá trình của tư tưởng. Ta không thể “nghĩ” đến tình
thương, không thể vun trồng, không thể tập luyện được. Tập thương, tập rung
động trong niềm tương thân, tương ái vẫn còn trong vòng ràng buộc của khối óc,
nên đó chẳng phải là tình thương. Chỉ khi nào các thứ ấy dứt đi thì tình thương
hiển hiện và lúc ấy ta mới biết thế nào là tình thương. Tình thương không phải
ở phẩm mà cũng chẳng phải ở lượng. Khi tâm rỗng hết mọi vật của trí, khi trí
rỗng hết mọi suy tư thì có tình thương. Chỉ có cái Không mới là vô tận.”
Lấy Từ Bi làm con đường để bước đi là một
thái độ vô cùng bao dung, dũng cảm. Chỉ có những trái tim hồng được un đúc
trong lò lửa nhiệt huyết giữa cuộc sinh tồn đầy bức bách, đầy nặng trĩu điêu
linh này, đã từng chứng kiến nghìn nỗi đoạn trường, thống thiết, triệu niềm
khắc khoải, quằn quại, áo não của nhiều cảnh đời tuyệt lộ trong hiu hắt, tàn
xiêu… thì mới đủ sức mạnh thần lực mà phát tâm nguyện đại từ, đại bi như vậy được.
“Đường con đi đường Từ Bi” chỉ một
câu thơ dễ hiểu thôi, nhưng đủ gây chấn động khôn dò, bởi nói ra từ giới trẻ
hôm nay, thật vô cùng hy hữu, ít có làm sao.
Trào
dâng lên làn thanh khí thi vị, thi nhiên, tiếng thơ Giác Tâm có cảnh có tình,
có nhạc có họa, “thi trung hữu họa.”
Trong thơ hiện lên những cung bậc thiền, những bức tranh bình dị, mộc mạc, phản
ánh nhiều cảnh đời thường nhật, nhiều trạng thái tâm thức hân hoan, sầu nhớ…
Lời thơ tha thiết chân thành, biểu lộ thế giới nội tâm thâm cảm yêu thương, vô
vàn chan chứa toàn thể thế nhân đang lặn hụp, nổi chìm giữa biển phù sinh,
nghẹn ngào xiết bao khổ lụy. Vì thế, chàng thi sỹ phát tâm đại nguyện thượng
thừa, đưa tay cắt đứt mái tóc hồng trần, quyết chí đi xuất gia, quy y với Hòa
thượng Từ Hương vào năm 1969, làm bậc đại trượng phu, dù tuổi đời lúc bấy giờ,
còn rất thanh xuân, mới 14 tuổi. Chỉ có tuổi trẻ mới làm những việc phi thường,
như Phạm Công Thiện, một thiên tài kiệt xuất đã nói thế. Thiền sư Nhất Hạnh
cũng lên tiếng tán thán những bậc xuất
gia, đại sỹ:
Đã thấy đời cơn huyễn mộng
Chân tâm một quyết lên đường
Nghe hải triều lên mấy độ
Nguyện phát túc về siêu phương
Sáng nay cạo sạch mái tóc
Mở thêm rộng lớn con đường
Phiền não vô biên nguyện đoạn
Một tâm mà động mười phương
“Một tâm mà động mười phương” Đó là tâm thức bừng
trổ hào quang tuệ giác siêu việt, làm rực rỡ, huy hoàng, sáng chiếu diệu ngời
khắp Đông Tây kim cổ như tuệ giác Phật Thích Ca, Long Thọ, Mã Minh, Tăng Triệu,
Milarepa, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, Lâm Tế, Krishnamurti, Heidegger, Nietzsche,
Henry Miller, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện… Tuyệt vời tư tưởng phóng khoáng, lẫm
liệt, hùng tâm tráng khí như thiền sư Không Lộ trên đỉnh ngàn chất ngất cô
phong:
Cắm cột am cao đất rắn rồng
Vi vu thân thế tuyệt đời ông
Đỉnh non có buổi leo lên thẳng
Gầm dài một tiếng lạnh hư không
Một tiếng gầm sấm sét, một tiếng hú dữ dội,
kinh hồn hay một tiếng thơ ngân dài cao vút suốt nhật nguyệt thiên thanh đều
phát khởi từ đáy sâu thăm thẳm nội lực tâm hồn thâm hậu. Từ cõi tâm thần diệu
đó, nhà thơ Giác Tâm gởi gắm nỗi lòng mình qua Tâm Sự Hàn Sơn Tử:
Giã từ thôi chữ nghĩa
Về xem mây trắng bay
Cõi đời không dấu tích
Khắc chạm nào ai hay
Ba trăm bài vách núi
Có còn trong thiên thu?
Ta về nơi chốn ấy
Huyền nghĩa có phù du?
Thập Đắc ơi theo mình
Trụ vào nơi vô trụ
Thi phú để cho đời
Chừng bấy nhiêu tạm đủ
Sương mù len vách núi
Mờ yếu tính thiền thơ
Trôi theo dòng thi khắc
Rỡ ràng bài thơ Vô
Vô sở cầu, vô sở trụ, vô sở đắc là bài thơ
tuyệt bút của những bậc cao thủ, thượng thừa. Bài thơ Vô được các thiền sư
thường viết trên dòng nước nhân sinh, trên ngàn mây trắng thênh thang… Hàn Sơn
và Thập Đắc là hai thiền sư có hành tung kỳ bí dị thường, không theo điều lệ
tông môn nào cả, trái lại, phá chấp triệt để, thể hiện phong thái tự do, tự tại
như cuồng sỹ Tế Điên, Phổ Hóa, Đan Hà, Bùi Giáng... Họ tung hoành ngang dọc,
thõng tay vào chợ, vào chốn hỗn độn, náo nhiệt, phồn hoa, đô hội mà vẫn vô
nhiễm, thung dung, không bị trói buộc, chẳng mắc dính vào bất cứ hình danh, sắc
tướng nào hết. Bồng tênh qua lại giữa chợ đời đảo điên, phức tạp một cách thanh
thản, an nhiên.
Thiền là gì? Có người hỏi như thế. Lục tổ Huệ Năng trả lời: “Bên ngoài lìa tướng là thiền, bên trong
chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm liền loạn, nếu lìa tướng
thì tâm chẳng loạn. Bản tánh tự tịnh, tự định, chỉ vì thấy cảnh, chấp cảnh
thành loạn. Còn khi mình thấy tất cả mọi cảnh vật mà tâm chẳng loạn, đó là chơn
thiền vậy.” Thiền tông phóng khoáng, mở rộng cánh cửa Tánh Không bát ngát,
làm biến mất, xóa nhòa hết mọi biên giới đối đãi như dại khôn, ngu trí, ghét
thương, được mất, cao thấp, tâm vật, Phật ma, Chúa quỷ, thánh phàm, động tịnh,
đúng sai, phải quấy, hơn thua, tốt xấu, mộng thực, có không, sống chết… Đưa tất
cả cùng về thể tánh Nhất Như bình đẳng. Vắng lặng mọi so đo chân giả, hòa rung
trên cung bậc Bất Nhị reo ca. Từ trên cung bậc Bất Nhị đó, thiền sư và thi sỹ
cùng hòa âm, tương ứng trên bước đi như thị, như nhiên:
Hiên đời nắng táp mưa sa
Về non Ngọc Lĩnh ngắm hoa ven đồi
Am mây ngủ bóng mây trôi
Dòng sông mộng vẫn muôn đời mênh mang
Ngỡ cùng tử mãi đi hoang
Hốt nhiên một đóa mai vàng nở tung
Thõng tay vào chốn bụi hồng
Đường xưa mây trắng phiêu bồng tiêu dao
Rừng hoa nắng chợt xôn xao
Từng đôi cánh mở đi vào tịch nhiên
“Thõng tay vào chốn bụi hồng” thi sỹ mặc sức phiêu
bồng, rong chơi tận góc bể chân trời, khắp đồng bằng, châu thổ, cao nguyên, tiêu
dao du như Trang Tử, Lão Tử, như Basho, To Man Thu giữa phù hư huyễn mộng, ruổi
rong, đầm đìa mưa nắng phong trần, cát bụi phiêu linh… Ngao du từ phố núi Pleiku xuống phố biển Nha
Trang rồi lang thang qua các vùng Huế, Sài Gòn, Hà Nội… Có lần lặn lội qua tận
bến cát sông Hằng, Ấn Độ theo đường xưa mây trắng, tìm lại dấu chân đức Từ Phụ
trên tuyệt đỉnh Linh Sơn, vọng vờn tiếng cười bất tuyệt thiên thu... Rồi cuối
cùng, nhẹ nhàng làm cuộc quy hồi cố quận, trở về ngôi chùa Bửu Minh, nơi chốn
quê nhà, cố hương yêu dấu cũ.
Sau
một thời gian dài hơn 15 năm, du phương tầm cầu học đạo với những bậc tôn túc,
thượng thủ, nhà sư thi sỹ Giác Tâm trở về an trú, trụ trì chùa Bửu Minh. Với
tâm hồn nghệ sỹ, tài hoa, thầy dốc hết năng lực, trí tuệ ra trùng tu toàn bộ
cảnh thiền môn xuống cấp thành một ngôi đại tự nguy nga, tráng lệ. Chùa có vị
trí biệt lập, cách xa làng xóm, nằm trên ngọn đồi giữa những nương rẫy chè xanh
thoáng đãng. Xây cổng tam quan năm mái, đặc thù như ngũ uẩn giai không, đúc đại
hồng chung, sớm chiều ngân nga, đồng vọng trầm hùng, đánh thức dậy cơn mê ngủ,
quằn quại trần ai, trong những đêm khuya dài vắng lặng : “Lắng lòng nghe lắng lòng nghe. Tiếng chuông chánh niệm quay về nhất
tâm.”
Ngoài
những tác phẩm điêu khắc Đức Phật sơ sinh, Đức Phật ngồi tọa thiền, Đức Phật
nằm nhập diệt, tượng Di Lặc, Quán Thế Âm sắp đặt hài hòa, rải rác quanh chùa,
còn có một ngọn bảo tháp vươn lên, nổi bật trên nền trời xanh thanh thoát. Toàn
bộ kiến trúc chùa là do trái tim đầy tâm huyết của thầy, hướng dẫn thợ và cùng
làm với họ, thổi hồn vào tác phẩm. Ngôi bảo tháp vút cao, xòe tỏa ra trên mái
chùa như che chở, đùm bọc xóm làng, sơn thôn giữa chốn rừng sâu. Trên đỉnh tháp
có thờ Xá lợi Phật ( thỉnh từ Tích Lan ) và Đại tạng kinh. Ngôi chùa có bảo tháp cao nhất Việt Nam này
là một tác phẩm tâm đắc, độc đáo mà nhà sư thi sỹ dồn hết thập thành công lực
của mình vào mới thực hiện nổi. Đôi khi, trong những chiều hôm nắng quái, chạnh
niềm tịch mịch, ngồi ngắm nhìn ngôi bảo tháp tỏa bóng xuống nương chè, thi sỹ lặng
thầm hát nhạc Trịnh Công Sơn : “Mưa vẫn
mưa bay trên tầng tháp cổ. Làm sao em biết bia đá không đau. Xin hãy cho mưa
qua miền đất rộng. Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau…” Ngôi chùa xưa đã trải
qua bao mùa cuồng phong, bão tố vẫn đứng trầm mặc, uy hùng, cô tịch, lặng lẽ
trên nương rẫy chè, thoáng ngát triền đồi quê:
Bửu Minh chốn cũ đi về
Ngàn khơi gió lộng bốn bề trà xanh
Cây đa rợp bóng thiên thanh
Cho con tịnh lạc an lành đi lên
Về đây con có mẹ hiền
Đưa con qua tận suối miền uyên nguyên
Con về lội khắp sơn xuyên
Trồng hoa trên đá an nhiên ngắm nhìn
Con về còn trọn niềm tin
Câu kinh Không Sắc xóa nghìn thương
đau
Về đây sương trắng mái đầu
Chợt nghe chim hót nhiệm mầu tử sinh
“Con về còn trọn niềm tin” một câu thơ mà thi
sỹ đã lấy làm đầu đề cho tác phẩm tản văn, dài 364 trang của mình, do Phương
Đông xuất bản, năm 2012. Con về còn trọn
niềm tin, khẳng định tấm lòng son sắt của thi nhân đối với Đạo, với Thiền,
với quê xứ trầm nhiên nơi Tự Tâm, Tự Tánh. Hạnh phúc lạ lùng khi biết diệu
dụng, sống với Tự Tánh, Tự Tâm thâm thúy, vi diệu đó. Chỉ một “Câu kinh Không Sắc xóa nghìn thương đau”
và “Chợt nghe chim hót nhiệm mầu tử sinh”
là đã nói lên yếu chỉ, tinh túy, cốt tủy của Diệu Tâm mầu nhiệm, đưa ta vượt
thoát khỏi cuộc sinh tử luân hồi.
“Sắc tức thị Không, Không tức thị sắc… sinh
tử tức Niết Bàn” Đó là tiếng đàn Bát Nhã, Tâm Kinh mà thi sỹ thường lắng
nghe và ca hát nhịp nhàng theo, từ sớm tới chiều trong liêu vắng cô liêu. Nhiều
khi trầm mình trong dòng kinh, thi sỹ thích thú chuyển dịch phẩm Phổ Môn, trong
Diệu Pháp Liên Hoa Kinh, bằng một văn phong sinh động, tân kỳ : “Phật bảo : Này Vô Tận Ý ! Tôi vừa nói cho
quý vị nghe về sự dạo chơi tự tại của Bồ tát Quán Thế Âm trong thế giới ta bà
của chúng ta và phân tích cái thần lực cũng như cái tự do của ngài.” Dạo chơi
tự tại, cái thần lực, cái tự do là cách dịch thoát độc đáo, phảng phất khí
vị văn chương.
Văn
chương, nghệ thuật, thường phiêu diêu như hơi thở, hòa quyện vào cuộc sinh
diệt, đến đi của phù sinh huyễn mộng. Bằng phương tiện thi ca, nhà thơ tiễn
biệt Hòa thượng Giác Phúc ( trụ trì Tịnh xá Ngọc Phúc, Pleiku ) lên đường trở
về cõi miền lung linh Tịnh Độ:
Cao
nguyên hoa đàm rụng
Trời Tây trổ sen vàng
Dạt dào câu niệm tụng
Thương thầy vừa Đăng Quang…
Hay khi nghe tin mẫu thân Hòa thượng Thiện
Nhơn ( trụ trì Tổ đình Thiên Đức, Bình Định ) qua đời, nhà thơ xúc động, thốt
lên tiếng lòng ngậm ngùi, thay lời của Hòa thượng, trước cuộc vĩnh ly bà mẹ
hiền dấu yêu:
Chiều nay mây trắng vương vương
tóc
Nhớ đến mẹ hiền quá lao lung
Nghĩ đến tình đời nên con khóc
Nguyện mẹ tiêu dao cõi vô cùng
“Nguyện mẹ tiêu dao cõi vô cùng” là một mong ước cho
mẹ được vãng sanh, tiêu dao vào miền bất sinh bất diệt, thần phách siêu thăng
chốn Tịnh thổ Bồ Đề. Thế nên, văn chương, văn nghệ là thể điệu nghệ thuật siêu
xuất, là con đường phong quang sáng tạo, có thể vượt qua địa ngục, thiên đường,
vượt qua tất cả mọi giả chân, mê ngộ, mộng thực… để thong dong, tự tại giữa có
không, sống chết… Trên con đường sáng
tạo vô vi, thi sỹ Giác Tâm cảm nhận ngay trong cơn tử sinh trường mộng này vốn
hiện diện đầy đủ cảnh giới Niết Bàn, mặc dù còn thấp thoáng nhưng cũng thấy ra
một cõi đi về. Thành thử, cứ như vầy, như thế, tùy duyên bất biến giữa dòng đời
vạn biến, sớm biết tìm đường trở về quê quán an lạc dưới ánh đạo vàng:
Đi về một cõi thênh thang
Suối thương yêu chảy mênh mang đất trời
Còn đây áo trắng tinh khôi
Vờn bay thấp thoáng núi đồi mù sương
Con về đốt nén tâm hương
Lòng thành tưởng niệm vấn vương mẹ
hiền
Cõi người ta cõi oan khiên
Con về nương tựa cửa thiền từ đây
Một đời mê mãi sống say
Quay về ngồi ngắm may bay đỉnh tùng
Chim nào rớt xuống lòng thung
Xé toang lưới mộng trùng trùng bay
lên
Bay lên đỉnh núi không tên
Cất cao tiếng hót mông mênh lưng trời
Đã về đã tới như thiền sư Nhất Hạnh, nhà thơ
Giác Tâm mỉm nụ cười trầm tịnh, lắng nghe “Suối
thương yêu chảy mênh mang đất trời” thênh thang chảy qua cả ba nghìn thế
giới. Chảy về chùa núi Bửu Minh tịch mịch, thanh vắng giữa đồi cao bạt ngàn cà
phê, nương rẫy chè xanh. Thi sỹ tùy duyên chuyển hóa, cưu mang, giúp đỡ, hướng
dẫn đồng bào phật tử hữu duyên biết buông bỏ tham lam, sân hận, si mê, để vơi
đi bớt mọi lụy phiền, điên đảo, khổ đau, sầu thảm, âm u…
Lãng
đãng phong trần, giữa muôn trùng cuộc lữ, tôi làm chuyến đi xuyên Việt, khởi từ
bờ biển Kiên Giang đến nay cũng hơn 4 tháng rồi mới tới vùng cao nguyên, phố
núi Pleiku này. Một nếp duyên lành hạnh ngộ, tôi dừng gót giang hồ, lưu trú lại
chùa Bửu Minh gần cả tuần lễ nay. Sớm chiều vào ra nhàn nhã, vô sự, ngắm huyền
ảo khói sương Biển Hồ, trông mây ngàn trôi bàng bạc trên dãy núi Tiên Sơn, chập
chờn bao hoa nắng phiêu bay, bảng lảng, vang vọng bóng sơn khê, nghi ngút bồng
bềnh trên miền thiên thanh vĩnh thúy…
Gặp
du sỹ như gặp người đồng điệu, thầy trải lòng ra hòa khúc tri âm, tri kỷ. Rót
cạn mấy bình trà bên thềm trăng khuya mà vẫn chưa hết ý, cạn lời hàn huyên, tâm
sự. Một chiều, thầy đưa xem bản thảo tập thơ Dòng Sông Xưa Đôi Bờ Hoa Nở Đỏ, hơn mấy trăm bài thơ, vừa ngậm ngùi
vừa tiêu sái, vừa nỗi niềm vừa xuất cốt, phiêu diêu. Tôi liền đọc một mạch như
đọc lại chính mình và hân hoan, sảng khoái, cảm đề bài thơ, riêng tặng nhà sư,
thi sỹ Giác Tâm, trước khi chia tay, tạm biệt, tiếp tục lên đường, viễn phương
hành theo khói trời mênh mông bay về cùng tuyệt:
BỬU MINH TRẦM TỊCH NHIÊN
Rừng nhạt nắng dừng chân Chư Pah
Đồi cao nguyên xanh ngút Biển Hồ Trà
Trại Mộ nao nao hồn cố quận
Bóng thông già vi vút gió chiều qua
Hàng cau trước vườn chùa xưa cô tịch
Đứng thanh lương như Từ Phụ mỉm cười
Đón đứa con hoang về quê cũ
Sau bao ngày lang bạt đuối chơi vơi
Thương từng vệt rêu phong trên cổ tháp
Từng nét mờ ẩn hiện dấu thời gian
Con về còn trọn niềm tin* tưởng
Vẫn rung ngân bất tuyệt tiếng thu ngàn
Là tiếng lòng tâm ca hòa sâu thẳm
Quyện ân tình vĩnh cửu bước thiên thu
Bửu Minh Bửu Minh trầm tịch chiếu
Diệu kỳ tan vô lượng kiếp mịt mù
(Phố núi Pleiku 20. 4. 2016)
----
Chữ
nghiêng : Thơ Giác Tâm. Trích trong tập Dòng Sông Xưa Đôi Bờ Hoa Nở Đỏ, sắp
xuất bản.
*Con Về
Còn Trọn Niềm Tin. Thích Giác Tâm. Tập tản văn, Phương Đông xuất bản, 2012
----
© Tác giả giữ bản quyền. . Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Kiên Giang ngày 21/04/2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét