Châu Thạch: Lạm bàn thêm về tranh luận việc bình thơ
Thứ Năm, 31 tháng 3, 2016
Thời
gian gần đây, trên nhiều trang web trong và ngoài nước có một cuộc tranh luận
nhẹ nhàng nhưng cũng gây được hào hứng cho bạn đọc, bạn viết . Châu Thạch tôi
xin tường thuật sơ lược và cũng mạo muội lạm bàn thêm một vài ý kiến
chủ quan của mình, mục đích tạo thêm ít phút thư giản cho người thích đọc. \
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
LẠM BÀN THÊM VỀ TRANH LUẬN VIỆC BÌNH THƠ
LẠM BÀN THÊM VỀ TRANH LUẬN VIỆC BÌNH THƠ
Thời
gian gần đây, trên nhiều trang web trong và ngoài nước có một cuộc tranh luận
nhẹ nhàng nhưng cũng gây được hào hứng cho bạn đọc, bạn viết . Châu Thạch tôi
xin tường thuật sơ lược và cũng mạo muội lạm bàn thêm một vài ý kiến
chủ quan của mình, mục đích tạo thêm ít phút thư giản cho người thích đọc.
Câu
chuyện xảy ra bắc đầu từ việc nhà thơ Phạm Đức Nhì không thống nhất với ý kiến
của nhà thơ Nguyễn Khôi về bài thơ Trăng lên của Lưu Trọng Lư. Bài thơ Trăng
lên như sau:
Trăng Lên
Vầng trăng lên mái tóc mây
Một hồn thu tạnh mơ say hương nồng
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em.
Nhận
xét về bài thơ nầy nhà thơ Nguyễn Khôi viết như sau: “Ý là muốn nói đến sự
say đắm si mê của chàng với nàng (đó mới là chung chung chưa rõ ràng), chỉ
đến khi Thi sĩ thể hiện bằng hình tượng thơ cụ thể :
Mắt em là một dòng sông
Thuyền ta bơi lặng trong dòng mắt em
(Lưu
Trọng Lư)
thì
đó đã là một TỨ THƠ độc đáo”
Bằng
nhiều lý luận, nhà thơ Phạm Đức Nhì không công nhận ý thơ bày tỏ sự say đắm của
chàng trai với cô thiếu nữ mà ngược lại, Phạm Đức Nhì cho rằng ý thơ bày tỏ sự
say đắm của thiếu nữ với chàng trai. Phạm Đức Nhì viết: “Theo câu cuối của
bài thơ thì cô gái đang thu hút cả bóng hình chàng trai vào đôi mắt- như một
dòng sông- của mình, “cho phép” chàng được bơi lặng trong dòng sông ấy, nghĩa
là nàng đang nhìn chàng say đắm. Dựa vào cái nhìn say đắm ấy người đọc có thể
kết luận mà không sợ sai lầm: tác giả đã nhận biết và đã dùng tài thơ của mình
khoe với mọi người “Nàng đã yêu ta đắm say” và rồi Phạm Đức Nhì kết
luận:
“để
kết luận ý của bài thơ là “sự say đắm, si mê của chàng với nàng” thì đó là một
kết luận không đúng. Ý của bài thơ chính xác ra phải là “Làng nước ơi!
Người con gái ấy đã yêu ta đắm say”.
Lạm
bàn của Châu Thạch:
Nhà
thơ Phạm Đức Nhì quan niệm như thế cũng có cái lý của nó, tuy nhiên muốn biết
chính xác chúng ta phải xác định được ý thơ trong bài “Trăng lên” của
tác giả thể hiện cho lời của người nam hay lời của người nữ. Nếu “Trăng lên” là
lời của cô gái thì nhất định là cô ta đã công nhận chàng lọt vào mắt xanh của
mình như Phạm Đức Nhì đã nói. Ngược lại, “Trăng lên” là lời của người nam thỉ
rỏ ràng người nam chỉ muốn bày tỏ “sự say đắm si mê của chàng” như Nguyễn Khôi
đã viết, vì chuyện người nam chỉ nhìn vào mắt cô gái mà khẳng định cô ta đã yêu
mình say đắm thì thật ra quá hấp tấp và nếu thật như thế thì cũng chỉ sung
sướng ngầm chứ chẳng cần phải hô hoán lên bằng thơ như vậy. Dòng sông thì không
phải chỉ có một con thuyền mà có thể có hàng chục, hàng trăm con thuyền bơi lội
trong đó, làm sao chàng trai dám quả quyết con thuyền mình chiếm đôc quyền dòng
sông ấy ?. Theo thiển ý của tôi bài thơ “Trăng Lên” là lời của chàng
trai, vì nếu là lời của cô gái thì không bao giờ cô tự ca tụng mắt
mình “là một dòng sông” cả.
Câu
chuyện chưa chấm dứt ở đây khi nhà thơ Phạm Đức Nhì nhận được một email của khán
giả gởi đến với câu phỏng vấn:
“Chào
ông PĐN, ông nghĩ sao về nhận định của nhà phê bình văn học Thụy Khuê trong
đoạn dưới đây về bài thơ Trăng Lên của Lưu Trọng Lư?”.
Trong
nhận định của Thuỵ Khuê, ngoài những lời ca tụng cái hay của “Trăng Lên” còn có
thêm một ý khác lạ như sau: “Thi nhân thường so sánh khuôn mặt đàn bà với
vầng trăng. Cái khác lạ ở đây là Lưu Trọng Lư dùng vầng trăng để mường tượng
vầng trán người thanh niên nghiêng xuống mái tóc người yêu: hình
ảnh "vầng trăng lên mái tóc mây" vô cùng quyến rũ.” Nhà phê
bình văn học Thuỵ Khuê còn kéo thêm Vũ Ngọc Phan vào để củng cố lập luận của
mình: “. Vũ Ngọc Phan là người đầu tiên khám phá ra hình ảnh ấy, ông viết:
"Mượn vầng trăng nhô đầu lên đám mây đen mà tả cái phút ái ân của đôi trai
gái trong lúc giáo đầu thì như thế thật là đầy tình, đầy mộng, thật là thanh
cao, thật là tuyệt bút" (Nhà Văn Hiện Đại).” rồi bà nhấn
mạnh thêm: “Chữ mây hàm chứa nhiều ý nghĩa: mây là óng mượt như
sợi mây (dùng để đan giỏ). mây còn có thể là mây mưa, mây
gió. Mây cũng là cung mây, tột đỉnh của hạnh lạc. Lưu Trọng Lư đã đặt hình
ảnh: vầng trăng lên mái tóc mây bên cạnh hình ảnh thuyền ta bơi
lặng trong dòng mắt em, để lồng ấp hai linh hồn, hai hình hài say đắm, mắt
trong mắt, trong khung cảnh tuyệt đỉnh thần tiên, thơ mộng …”
Tất
nhiên Nhà thơ Phạm Đức Nhì không bao giờ công nhận tứ thơ nầy. Với bài viết
“Trăng lên và phép ẩn dụ toàn bài” Phạm Đức Nhì đã giải thích về phép ẩn dụ và
cuối cùng, xin trích một đoạn phản biện của ông như sau: “Nếu hiểu bài Trăng
Lên là cảnh ái ân của đôi trai gái thì lúc ấy ngoài lửa tình sẽ còn có lửa dục;
mà lửa dục thì phải nói là “nóng như hỏa diệm sơn”. Mắt em không còn “là một
dòng sông” trong vắt để có thể in hình “thuyền ta” (1) ở trong ấy nữa vì đã bị
mờ đục bởi hơi nóng ngất trời của lửa tình, lửa dục. Và “thuyền ta”, nếu
may mắn, có một tích tắc nào đó lọt vào mắt em thì cũng tròng trành, chao
đảo, nghiêng ngửa như đang gặp cơn bão xoáy chứ làm sao có thể “bơi lặng”
được.”
Lạm
bàn của Châu Thạch:
Đoạn
nầy Châu Thạch tôi đồng ý với Phạm Đức nhì hoàn toàn. Thật ra không có “vầng trăng
lên máí tóc mây” được mà chỉ có ánh trăng chiếu trên mái tóc mây thôi, còn vầng
trăng thì nó ở xa tít tận phương đông. Khi Lưu Trọng Lư viết “vầng trăng lên
mái tóc mây” thì đó chỉ là cái nhìn biểu kiến xuyên qua mái tóc cô gái thấy
vầng trăng ở tận trời xa. Nếu dùng mặt trăng để ám chỉ cái trán của
chàng trai thì cái trán đó phải xa mái tóc nàng ngàn vạn dặm. Hơn nữa cái trán
đàn ông mà đem ví với vầng trăng thì từ diển tích xưa cho đến nay chắc chẳng
mấy ai dùng vì hình dung nó làm xấu đi nét đẹp của đấng nam nhi. “Dùng vầng
trăng để mường tượng vầng trán người thanh niên nghiêng xuống mái tóc người
yêu” thật ra là một suy diễn cường điệu, vô tình bình cho bài thơ trở nên rất
hề vì cô gái sẽ bỏ chạy ngay khi thấy vầng trán như vậy ập xuống đầu mình.
Đồng
thời gian nầy có một bài viết của tác giả Nguyễn Bàng mà Phạm Đức Nhì xưng hô
là bác Bàng. Bác Bàng sau khi phỏng vấn một cô giúp việc và được cô cho biết cô
“thích những bài thơ ngắn gọn, có vần có điệu, nghe êm tai, dễ nhớ dễ thuộc”
thì bác Bàng liền bày tỏ quan niệm về đọc thơ như sau: “Đọc thơ như
công chúng, nghe thơ như công chúng thì có cần gì phải học ngữ pháp, không cần
phải biết Thi pháp là cái quái gì, cũng không cần biết Tu từ học với những ẩn
dụ, những động từ này nọ để cố hiểu cho bằng được bài thơ như các nhà bình tán.
Cũng chẳng cần biết thủ pháp mô tê răng rứa gì. Nhà thơ cũng vậy, làm ra
thơ để ai thích thì đọc chứ không phải để cho các nhà này nọ mang cách nhìn của
mình ra để làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất đời thường kia.”
Trả
lời bài của bác Nguyễn Bàng, nhà thơ phạm Đức Nhì viết bài “Câu chuyện thưởng
thức thơ” trình bày về 3 chức năng của một bài thơ. Đó là chức năng truyền
thông chuyền tải thông điệp, chức năng thẩm mỹ truyền đến người đọc
và chức năng nghệ thuật hồn thơ. Để kết luận Phạm Đức nhì có những ý
sau đây:
“Một trong những nhiệm vụ của việc bình thơ
là nâng tầm thưởng thức của người đọc thơ.”, “Đọc thơ chỉ bằng trí sẽ không
thấy hơi nóng của cảm xúc, không “bắt” được hồn thơ, sẽ chẳng bao giờ cảm được
cái hay trọn vẹn của thơ. Còn nếu chỉ đọc thơ bằng hồn, không có sự soi sáng
của kiến thức thì sẽ như chị giúp việc, một là, lắm khi gặp những tuyệt tác thi
ca lại dè bỉu, chê bai, hai là, suốt đời“tự sướng”, sướng mà không biết vì sao
mình sướng, miệng ngâm nga những vần thơ “cả đẩn” mà mắt cứ sáng long lanh, mặt
rạng rỡ như đóa hoa xuân.”
Lạm
bàn của Châu Thạch:
Theo
tự điển giải thích, “công chúng” có nghĩa là mọi người. Vậy bác Bàng chỉ phỏng
vấn một cô giúp việc mà vội vàng kết luận đó là “đọc thơ như công chúng, nghe
thơ như công chúng” thì không chính xác bao giờ. Cô giúp việc chỉ thuộc vào lớp
người bình dân ít học chớ không phải công chúng. Công chúng thì có mọi tầng
lớp: ít học, có học và trí thức. Lớp người bình dân, ít học dầu đọc thơ, nghe
thơ một cách đơn sơ nhưng không phải là họ không có nhu cầu để “thưởng thức thơ
trọn vẹn” như Phạm Đức Nhì đã nói. Ngày xưa những người nông dân chân lấm tay
bùn thuộc làu Kiều và hiểu Kiều là vì họ được tiếp thu những gì mà giới nho
sĩ chuyển tải đến họ qua trò chuyện, qua tiếp xúc trong làng thôn,
trong thân thuộc. Ngày nay các chị giúp việc, các người làm thuê, làm mướn tôi
luyện kiến thức, nâng cao cảm nhận qua đài phát thanh, truyền hình và qua mọi
giao tiếp giữa đời. Những người thích nghe thơ và thuộc thơ như chị làm vườn
của bác Bàng họ luôn luôn có nhu cầu học hỏi và luôn luôn tự học, họ sẳn sàng
đứng lại hàng giờ để lắng nghe , “hiểu cho bằng được bài thơ” của “các nhà bình
tán”. Chúng ta không phải mới bước vào lớp học đã được dạy cho “cầm dao mổ xẻ những
con chữ “ rồi sao? Chúng ta học văn thì thầy giao “cầm con dao mổ xẻ những con
chữ” trong các bài thơ, bài văn cho ta bắt chước, đó chính là tri thức của thầy
dạy ta làm người . Chúng ta làm bài tập làm văn là chúng ta tập “mổ xẻ nhưng
con chữ” mà thầy giao ra đề cho ta để cho ta tập làm văn mà cũng tập làm người
. Vậy sao bây giờ chúng ta lại đề cao cái “không cần phải học ngữ pháp. Không
cần phải biết thi pháp là cái quái gì, cũng không cần biết cái tu từ học với ẩn
dụ” là sao? Rồi chúng ta kết tội nhưng người nghiên cứu những cái đó, phổ biến
những cái đó là “làm con dao cùn mổ xẻ những con chữ rất đời thường kia” thì có
bất công lắm không? Người “cầm con dao để mổ xẻ con chữ” có khi nhẹ tay, có khi
nặng tay, có khi vấp phạm nhưng tôi nghĩ nếu không có những người đó
thì những áng văn chương bất hủ cũng sẽ mai một với thời gian vì nhờ họ mà
những ý thơ, tứ thơ hay trong các áng văn chương, trong các câu ca dao bóng bẩy
được truyền tụng bằng miệng, được ghi chép bằng sách cho đời nầy qua đời khác,
nâng cao trình độ cảm nhận của quần chúng là đủ mọi lớp người. Những nhà phê
bình văn thơ cũng chỉ nói giùm cho công chúng nhưng diều mà công chúng thích
thú nhưng vì thiếu năng khiếu trời cho để viết nên họ chỉ cảm thụ trong lòng mà
không diễn đạt được, khi đọc được nhưng lời bình luận trúng ý họ, họ vô cùng
sung sướng. Tôi đã từng thấy những bác xe ôm nhảy cởn lên cười ha hả khi tôi
giải thích cho họ hiểu một tứ thơ thâm thuý tiềm ẩn trong câu thơ nào đó ./.
Châu Thạch
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 31/03/2016
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 31/03/2016
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Về mặt phân tích thơ ca thì nhà thơ Phạm Đức Nhì đáng cho ta trân trọng vì những công trình ông làm cho thơ văn, với sự bóc tách suy luận từng câu từng chữ rất nghiêm túc. Chỉ có điều chính vì bóc tách quá kỹ càng mà đôi khi làm bài thơ bi bạch hóa, hết còn thâm sâu khiến người đọc hơi khó xử. Nhưng tôi vẫn rất trân trọng anh Phạm Đức Nhì như một bậc đàn anh. Người tiếp theo tôi khâm phục chính là anh Châu Thạch. Tôi đã đọc nhiều bài viết của anh, biết được bút pháp và tầm nhìn về thơ của anh nên tỏ lời khâm phục. Chúc anh luôn vui và tham gia bình thơ cho vườn thơ thêm phong phú. Cám ơn.
Trả lờiXóa