Home
» Lý luận phê bình
» Trúc Thanh Tâm- Tình yêu quê hương trong những bài thơ thời chiến – Bài Nguyễn An Bình (Cần Thơ)
Trúc Thanh Tâm- Tình yêu quê hương trong những bài thơ thời chiến – Bài Nguyễn An Bình (Cần Thơ)
Thứ Năm, 26 tháng 11, 2015
Thứ
Sáu – 08/11/2013 20 38
Tôi
biết ở nước ngoài có một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng lúc còn ở Việt Nam tập hợp
những bài thơ tình miền Nam thời chiến in thành tuyển tập, trong nước không
biết có nhà nghiên cứu, biên khảo văn học nào chú ý đến mảng đề tài nầy không,
nếu có một ngày đẹp trời nào đó tuyển thơ “THƠ MIỀN NAM THỜI CHIẾN” ra mắt thì Trúc Thanh Tâm xứng
đáng có mặt trong tác phẩm đó và tôi hy vọng ngày đó không còn xa nữa.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Nguyễn An Bình
Tên
thật Lương Mành
Sinh
ngày 21-06-1954 tại An Bình Cần Thơ
Tốt
nghiệp Đại học sư phạm Văn
Chổ
ở hiện tại: Q.Ninh Kiều TP Cần Thơ
ĐT:
0909697644
Email: luongmanh2106@gmail.com
_____
TÌNH
YÊU QUÊ HƯƠNG TRONG
NHỮNG BÀI THƠ THỜI CHIẾN
Phải
gần 38 năm sau tôi mới có dịp gặp lại Trúc Thanh Tâm, mặc dù có thời gian khá
dài chúng tôi ở cùng chung một thành phố sau năm 1975 trước khi anh có quyết
định về Châu Đốc định cư hẳn, nhà của Trúc Thanh Tâm cũng không xa nhà tôi mấy.
Được gặp lại anh, trong một ngày xuân ấm áp ở quê nhà, bên mấy ly bia và một
dĩa khô nhỏ bên con rạch Cái Khế nhìn ra ngoài sông gió thổi lồng lộng với dãy
đèn đêm vàng hực in hình trên bóng nước lấp loáng mới cảm nhận hết được thời
gian trôi qua nhanh như một giấc mộng. Người xưa thường nói “Bóng câu cửa sổ”,
ngày trước đi học được thầy giảng dạy cho hiểu nhưng cũng không thật để tâm lắm
đến ý nghĩa sâu xa của nó, bây giờ mới thật thấm thía “đời có bao lâu mà hững
hờ”. Hai anh em ôn lại thời còn làm văn nghệ trước 1975, hỏi thăm nhau bạn bè
văn nghệ xưa ai còn ai mất mà cảm xúc khôn nguôi.
Gặp
lại Trúc Thanh Tâm, có dịp đọc lại thơ anh trên các trang mạng cảm giác đầu
tiên của tôi là anh vẫn giữ được những tình cảm chân thật, sâu lắng và có thể
nói là vẫn thủy chung, tha thiết với tình yêu quê hương, với những kỷ niệm một
thời đi học và những mối tình đâu đó chợt đi qua trong tâm hồn nhà thơ, có điều
nó đã được nâng lên ở một cấp độ cao hơn, tinh tế hơn và cũng thật hơn. Thơ anh
viết gần như tự nhiên, gần gủi với cuộc sống, những câu thơ viết cho bạn bè,
người thân, và cho những người tình không quen biết đều thấm đượm sự chân tình,
giàu cảm xúc hình ảnh, xen lẩn những lời thơ hóm hỉnh đáng yêu, đời thường
không cường điệu, chính vì thế làm cho người đọc thơ anh cảm thấy thích thú như
thấy trong bài thơ anh đâu đó có mình trong đó. Tôi có đọc một số comment của
một số độc giả trẻ trên blog Trăng Nguyên Thủy của anh bày tỏ sự ái mộ và có bạn
lại hỏi khéo nhà thơ chừng nào in thơ để được đăng ký là một trong những người
ủng hộ đầu tiên thì cũng đủ thấy thơ Trúc Thanh Tâm đã thật sự có chổ đứng vững
vàng trong lòng người yêu thơ.
Chẳng
hạn như trong bài Ví Dụ có những câu thơ làm người đọc bật cười trước lời tỏ
tình như một ví dụ ướm thử để khỏi đau lòng, bất ngờ khi bị người đẹp từ chối
và sự trả lời rất ngây thơ nhưng cũng rất chân thật dễ thương trước một thực tế
khá phũ phàng của cuộc sống:
Cứ là ví dụ, vợ chồng
Đừng nghe thiên hạ dối lòng, bán mua
Nhỏ cười chúm chím, mây mưa
Sống cùng thi sĩ vẽ bùa, ăn thơ.
Một
bài thơ khác “Chuyện cổ tích” mà anh ký tặng tôi khi anh về Cần Thơ mới đây
cuối tháng 9 vừa rồi, khi ngồi cùng nhau bên tiệc rượu nhỏ anh, tôi, Trần Duy
Cang đã cùng ôn lại những kỷ niệm làm văn nghệ thời đó, cũng có những đoạn thơ
đáng yêu như thế:
Trệt đất xuống cho mát trời ông địa
Nước mắt quê hương uống thét phát
ghiền
Mấy thằng nam đừng chơi gian lận
Lót long đền, phái nữ họ ghen!
Món dân dã, lai rai tới bến
Đâu ở đâu, lại giống xứ mình
Trước khi chết còn xuống câu vọng cổ
Bạn ta cười, vỗ vế, y kinh!
Và
rồi anh cũng nhận ra cuộc đời vốn dĩ cũng chỉ là phù du, ngắn ngủi thì chúng ta
hãy xem như là một “Chuyện cổ tích”, có lẽ Trúc Thanh Tâm muốn thế và anh cũng
mong bạn bè anh nghĩ thế.
Mấy chục năm, biết trên biết dưới
Có chìm xuồng cũng hú hí cho vui
Hương một thuở nghe còn thơm phức
Nhằm nhò gì, chuyện cổ tích, trời ơi!
Nhưng
ở đây tôi muốn nhắc đến thơ anh ở một bình diện khác: Một Trúc Thanh Tâm với
nỗi khắc khoải khôn nguôi về tình yêu quê hương trong những bài thơ thời chiến
trước 1975.
Thời
ấy chúng tôi yêu văn nghệ, thích làm thơ viết văn và tự tìm đến nhau một cách
vô tư, trong veo không vướng bận những ganh đua vẩn tục thường tình. Anh lớn
hơn tôi mấy tuổi, khi tôi bước vào giảng đường đại học thì anh đã là người lính
trong thời chiến nhưng không vì thế giữa chúng tôi có sự ngăn cách. Tôi không
nhớ quen anh từ lúc nào nhưng có lẽ từ lúc gặp nhau trong buổi ra mắt tập thơ
Như Lá Me Sầu của Mặc Uyên Thi(tên thật Trương Chí Tiến, sau nầy là giảng viên
Đại Học Cần Thơ) ở một quán cà phê ở đường Mạc Tử Sanh khoảng năm 69-70 gì đó.
Lúc ấy anh cùng với Mặc Uyên Thi lập nhóm Hoa Thời Gian và hoạt động khá đều
trên báo chí, sau đó không lâu anh hợp nhất với Trần Duy Cang( còn có bút danh
Nguyên Thy Hồng), Trần Hòa Nhã thành lập nhóm Trăng Nguyên Thủy. Đây có lẽ đây
là thời kỳ nhóm Trăng Nguyên Thủy hoạt động sôi nổi nhất, lúc ấy anh có gởi
tặng tập thơ của nhóm lúc đó qui tụ thêm được một số bạn thơ sinh viên như Lê
Vũ Hùng, Nguyễn Thanh Hùng, Hồ Ngọc Ẩn, Bùi Thị Sại. Rất tiếc sau năm 1975
những tập thơ ấy tôi không còn giữ được. Tuy không hoạt động văn nghệ chung
nhóm với anh nhưng chúng tôi vẫn chơi với nhau thật thân tình, gần gủi. Còn nhớ
thời kỳ ấy văn nghệ miền Tây phát triển một cách tự phát nhưng không gì thế mà
không có sự gắn kết với nhau. Ở Vĩnh Long có thi văn đoàn Áng Thơ Đêm của Trần
Mộng Hoàng, Mỹ Tho có Văn nghệ Mây Đỉnh Cao của Thanh Uyên Vũ…, chúng tôi đều
có liên hệ, trao đổi. Làm sao quên được những kỷ niệm một thời làm văn nghệ
thuở ấy, lúc Trần Mộng Hoàng ra mắt tạp chí Tham Dự số 1 khoảng năm 70, tôi
cùng Trúc Thanh Tâm, Trần Duy Cang, Lê Vũ Hùng, sau nầy là thứ trưởng Bộ Giáo
Dục-Đào Tạo (đã mất) đã qua dự, chúng tôi có dịp quen thêm các nhà văn nhà thơ
như Việt Chung Tử, Mai Trúc Linh… Còn nhớ giữa trưa nắng chói chang, chúng tôi
với hai chiếc honda cà tàng đến Tam Bình thăm Mai Trúc Linh, lúc bấy giờ đang
là phó quận. Con đường vào quận vắng vẻ, ruộng đồng xác xơ mà ai cũng biết là
không nên qua lại sau 5,6 giờ chiều vì có thể một viên đạn lạc nào đó găm vào
mình và mãi mãi ta không biết viên đạn đó xuất phát từ đâu, bên nầy hay bên
kia. Chiến tranh thời ấy khốc liệt như vậy. Nói như thế để thấy được niềm say
mê gặp gỡ, giao lưu văn nghệ của chúng tôi lúc ấy mạnh mẽ như thế nào.
Chúng
tôi cũng thường đọc thơ nhau khi bài được đăng trên báo. Ở Trúc Thanh Tâm tôi
nhớ nhất là những bài thơ của anh đăng trên nhật báo Tin Sáng lúc bấy giờ. Phải
nói rõ thêm nhật báo Tin Sáng thời ấy là một tờ báo đối lập với chính quyền Sài
Gòn lúc bấy giờ do dân biểu Ngô Công Đức đứng tên, tôi và anh đều có bài cộng
tác ở trang Thơ Thời Chiến do dân biểu Kiều Mộng Thu phụ trách. Thơ anh xuất
hiện khá đều đặn. Điều đó cũng dễ hiểu, bấy giờ anh là nhà thơ mặc áo lính nên
không khí, hơi thở chiến tranh, tình yêu quê hương và những nỗi xót xa trước
cuộc chiến được anh tiếp cận, thể hiện khá rõ nét.
Mặc
dù lúc ấy tôi đã vào đại học , thường làm thơ tình học trò nhiều hơn là những
loại thơ khác, nên thơ chưa cảm nhận gì nhiều về sự khốc liệt của chiến tranh
nhưng tôi lại thích đọc thơ của những nhà thơ mặc áo lính lúc bấy giờ như Du Tử
Lê, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Trần Dzạ Lữ, Hồ Chí Bửu, Phù Hư, Kim Tuấn… nên
sau nầy tôi có dịp so sánh thơ anh gần gũi với thơ Kim Tuấn hơn cả. Sự khốc
liệt, trần trụi, tàn nhẫn đôi khi tuyệt vọng trước một cuộc chiến mà hai tiếng
hòa bình hình như còn quá xa vời thể hiện rõ nét ở thơ của Hồ Chí Bửu, Trần Dzạ
Lữ, Du Tử Lê; nhuốm màu quan tái như các bài Ngậm thẻ qua sông, Đồn sơn yểm,
Quân bộ khúc của Phù Hư; cao ngạo ngang tàng coi đó như trò đùa của con tạo,
rong chơi cùng vũ khí như trong thơ của Luân Hoán. Ở thơ Kim Tuấn nhất là những
bài thơ khi ông còn là lính đồn trú ở Pleiku, nỗi xót xa về cuộc chiến như một
vết sẹo đau buồn không tránh được nó phảng phất ăn sâu vào tâm hồn nhà thơ:
Tôi đã đi qua bao nhiêu xóm làng
Trong thời chiến tranh mấy lần xuôi
ngược
Lửa đỏ đồng hoang người chết bên
đường
Máu thẩm bên bờ ruộng đất quê hương
Tháng giá mùa đông không còn áo mặc
...
Tôi đã đi qua bao nhiêu xóm làng
Câu chuyện mười năm buồn như cắt ruột
Lửa ngày xưa cháy quê hương.
(Kim Tuấn- Lửa đỏ
mười năm)
Thì
ở trong thơ Trúc Thanh Tâm cuộc chiến cũng đồng nghĩa với chết chóc, với đau
thương, mất mát không có gì có thể bù đắp,thay thế được:
Như Việt Nam nầy ngày tháng đau
thương
Như ta một lần rồi cũng bỏ trường
Như thầy của ta bỏ màu áo đạo
Như bạn bè ta chết giữa thê lương!
Nên ta bây giờ ghét kẻ cuồng ngông
Nhìn máu Việt Nam chảy đỏ theo sông
Nhìn từng lớp xương, nhìn từng xác
thịt
Nhìn từng mái đầu chít vội khăn tang!
Hăm ba tuổi đời, ta vẫn là ta
Việt Nam vẫn thêm hận tủi chan hòa
Ta thấy cổ truyền Á Đông như mất
Lỡ nhận kiếp người đành nhận xót xa!
(Một
trái tim-1970)
Hay
trong một bài thơ khác, Trúc Thanh Tâm cho ta thấy một hình ảnh quê hương với
những cảnh đời bất hạnh, mà người ta cố tình phung phí máu xương như một món
hàng rẻ mạt:
Buổi sáng qua đường gặp người ăn xin
Việt Nam đau thương, Việt Nam tội
tình
Thế kỷ hai mươi, con người tranh sống
Thành phố Sài Gòn mọc nhiều building!
Chiến cuộc kéo dài, người bỏ nhau đi
Đứa trẻ không cha lúc mới chào đời
Nước mắt mẹ rơi, nồi da xáo thịt
Những dòng sông buồn có những thây
trôi!
Ta khóc cho người, ta khóc cho ta
Khóc cho Việt Nam hận tủi chan hòa
Em hãy lớn khôn để mà hiểu rõ
Cuộc đời không ngoài hình thức đám ma!
Đói rách vẫn còn triền miên đó em
Hãy nhớ nghe em đừng có sai lầm
Dù cho người đời bon chen đến mấy
Xin nhớ một điều, linh hồn Việt Nam!
Xa xí phẩm nào rẻ như máu xương
Em hãy về đốt một nén hương
Cho người đã chết và đang chết
Giọt máu Việt Nam định nghĩa chiến
trường!
(Giọt
máu Việt Nam-1970)
Để
thấy được phút giây đợi chờ ngày đất nước ngưng tiếng súng, quê hương ruộng
đồng thôi máu chảy, xác xơ nó thiêng liêng mầu nhiệm đến mức nào, nó như òa vỡ
ra như ngọn lửa hòa bình bùng cháy trong tim mỗi người:
Ta cũng một lần nói tiếng thủy chung
Yêu em nghe sao đau khổ tột cùng
Rách nát quê hương, một dòng máu chảy
Ta ở bên nầy, em bên kia sông!
………
Đời còn được gì sau những bình minh
Bao người đấu tranh, nào phải tội
tình
Tham vọng điên cuồng mà em thấy đó
Đất nước mình nghèo nhưng giàu những
lương tâm!
Em hãy bây giờ gần lại anh hơn
Để thấy trong nhau giọt nước mắt buồn
Để thương người sống không về nữa
Đất trổ hoa màu dù lắm mưa bom!
Ta cũng một lần nói tiếng yêu em
Ta cũng một lần nghe những khát thèm
Ta cũng một lần nghe người tự thú
Ngọn lửa hòa bình cháy mãi trong tim!
(Phút Đợi Chờ-1970)
Anh
mơ ước được tay nắm lấy bàn tay, hình dung một đất nước hòa bình như thế nào và
tình yêu như ngọn lửa hồng được nhóm lên trong đêm đông giá rét làm ấm lòng đôi
trai gái bền bĩ chờ nhau qua những năm tháng chiến tranh đẹp biết bao:
Hành trang anh còn nặng tình xứ sở
Những tủi hờn, những kỷ niệm chưa vơi
Nên tình em, anh vẫn chưa ngỏ ý
Sợ mai kia, em lỡ mất cuộc đời!
Em có nghe trong nỗi sầu con gái
Trời mùa đông, ai nhóm bếp lửa hồng
Đất mẹ ơi, còn hai miền Nam, Bắc
Một chiếc cầu thương nhớ một bến sông!
Anh còn gì, những tháng ngày cơm áo
Em được gì, những kiến thức bán mua
Trong can qua, người giành nhau sự
sống
Thương nhau hơn giữa xã hội lọc lừa!
Anh hình dung một hòa bình mai mốt
Khi chiến tranh thật sự đã an bày
Anh trở về với tình anh buổi trước
Em thẹn thùng, tay nắm lấy bàn tay!
(Tay Nắm Bàn Tay-1971)
Tôi
biết ở nước ngoài có một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng lúc còn ở Việt Nam tập hợp
những bài thơ tình miền Nam thời chiến in thành tuyển tập, trong nước không
biết có nhà nghiên cứu, biên khảo văn học nào chú ý đến mảng đề tài nầy không,
nếu có một ngày đẹp trời nào đó tuyển thơ “THƠ MIỀN NAM THỜI CHIẾN” ra mắt thì
Trúc Thanh Tâm xứng đáng có mặt trong tác phẩm đó và tôi hy vọng ngày đó không
còn xa nữa.
Bên bờ sông Hậu, tháng 11/2013
Nguyễn An Bình
Nguyễn An Bình
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại- ngày 26/11/2015
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Cần Thơ ngày 08/112013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét