Home
» Biên khảo - Tư liệu
» Phạm Khang: Sự hiện diện phong phú và đặc sắc của văn hóa Chăm Pa ở Thanh Hóa
Phạm Khang: Sự hiện diện phong phú và đặc sắc của văn hóa Chăm Pa ở Thanh Hóa
Thứ Hai, 23 tháng 11, 2015
Thanh
Hóa là một miền đất mở, nơi được coi là hội tụ và giao lưu văn hóa với khu vực
và quốc tế. Đồng hành cùng với lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, xứ
Thanh xưa và nay luôn diễn ra giao lưu, hội nhập, tiếp biến và tái tạo văn hóa,
tinh lọc thành giá trị, làm nên sắc thái văn hóa tỉnh Thanh, góp phần làm cho
bản sắc dân tộc Việt Nam thêm phong phú, độc đáo trong đa dạng. Giao lưu và
tiếp xúc của cư dân Việt cổ xứ Thanh với văn hóa khu vực, hải đảo và văn hóa
Chăm Pa có từ rất sớm.
Thông tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác giả Nhà thơ Phạm Khang
Họ tên thật Phạm Xuân Khang
Hội viên Hội VHNT Thanh Hóa.
Tác giả Nhà thơ Phạm Khang
Họ tên thật Phạm Xuân Khang
Hội viên Hội VHNT Thanh Hóa.
đã xuất bản 9 tập thơ, 4 tiểu thuyêt, 1 tập ký sự.
Học văn tại Nga. Dịch giả văn học thế giới.
ĐT: 0122.220.69.89
Email: phamkhangnhavan@gmail.com
_____
SỰ HIỆN DIỆN PHONG PHÚ VÀ ĐẶC SẮC
CỦA VĂN HÓA CHĂM PA Ở THANH HÓA
Phạm Khang
Học văn tại Nga. Dịch giả văn học thế giới.
ĐT: 0122.220.69.89
Email: phamkhangnhavan@gmail.com
_____
SỰ HIỆN DIỆN PHONG PHÚ VÀ ĐẶC SẮC
CỦA VĂN HÓA CHĂM PA Ở THANH HÓA
Phạm Khang
Thanh Hóa là một miền đất mở, nơi được coi
là hội tụ và giao lưu văn hóa với khu vực và quốc tế. Đồng hành cùng với lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, xứ Thanh xưa và nay luôn diễn ra giao
lưu, hội nhập, tiếp biến và tái tạo văn hóa, tinh lọc thành giá trị, làm nên
sắc thái văn hóa tỉnh Thanh, góp phần làm cho bản sắc dân tộc Việt Nam thêm
phong phú, độc đáo trong đa dạng. Giao lưu và tiếp xúc của cư dân Việt cổ xứ
Thanh với văn hóa khu vực, hải đảo và văn hóa Chăm Pa có từ rất sớm.
Người
ta nhận thấy: Tương ứng với văn hóa Bắc Sơn – thời đại đồ đá mới ở phía Bắc
Việt Nam, ở Thanh Hóa là văn hóa Đa Bút; Tương ứng với văn hóa Hạ Long (phía
Bắc), Bàu Trò, Xóm Cồn (miền Trung) xứ Thanh có văn hóa Hoa Lộc, Gò Trũng.
Thanh Hóa là nơi phát tích của nền văn hóa Đông Sơn, nhưng di chỉ văn hóa này
chiếm một vị trí quan trọng trong nền văn hóa sông biển tiền sử Việt Nam. Qua
những di chỉ khảo cổ học người ta thấy Thanh Hóa là một vùng đất cổ có cộng
đồng cư dân thuộc văn hóa Đa Bút (núi), Hoa Lộc (biển), Đông Sơn (đồng bằng) từ
vùng trước núi, tiến xuống đồng bằng và tràn ra các cồn cát ven biển để chiếm
lĩnh biển khơi.
Nói
tới văn hóa duyên hải Nam Trung bộ Việt Nam phải nói tới người Chăm và văn hóa
Chăm. Lịch sử dù có biến động, đổi thay thế nào thì người ta vẫn không thể phủ
nhận sự tồn tại của vương quốc Chăm Pa từ thế kỷ II đến thế kỷ XV trên khu vực
miền Trung Việt Nam, khu vực từ Đèo Ngang đến Đèo Cả - Đại Lãnh. Vương quốc
Chăm Pa được phân bổ theo 4 vùng lớn ở các đồng bằng nhỏ ven biển: Aarravaty,
Vijaya, Khautaara và Panduranga. Văn hóa Chăm Pa có cội nguồn nảy sinh từ văn
hóa Sa Huỳnh. Người Chăm Pa là con cháu của người Sa Huỳnh cổ. Văn hóa Chăm Pa
tiếp thu và ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.
Là
vùng đất của “tam vương, nhị chúa” với các cuộc “Nam tiến” của Lê Hoàn (năm
982), Lê Thánh Tông (1471), Nguyễn Hoàng (1611), “Bắc tiến” với phòng tuyến Tam
Điệp – Biện Sơn của Tây Sơn (1788)…văn hóa Chăm duyên hải Nam Trung bộ luôn
đồng hành với các vương triều này và lưu dấu ấn sâu đậm trên đất Thanh Hóa trên
nhiều phương diện: trong đời sống, phương thức sản xuất và canh tác, giao lưu
văn hóa tộc người, di sản văn hóa vật thể, phi vật thể.
Theo
“Đại Việt sử ký toàn thư”, năm 979,
vua Chăm là Rameshvaravarman I đã cử hạm đội tấn công Hoa Lư (Ninh Bình) nhưng
lại bị thất bại sau một trận bão. Năm 982, Lê Hoàn đã cử 3 sứ thần sang
Indrapura, sau khi các sứ thần bị giam giữ, vua Lê Hoàn đã quyết định tấn công
Chăm Pa. Trong cuộc chiến này Lê Hoàn “bắt sống được tướng sĩ không biết bao
nhiêu mà kể” đưa về Đại Việt lập nên các làng tù binh người Chăm khai khẩn đất
hoang. Cũng theo “Đại Việt sử ký toàn thư”,
đến thế kỷ XV vào năm 1471 sau bốn ngày giao tranh, vua Chăm là Trà Toàn bị bắt
sống và được đưa về Thăng Long bằng thuyền. Trong đám tù binh ấy có ít nhất
30.000 bị bắt làm nô tỳ cho quân Đại Việt. Trong cuốn “Vĩnh Lộc huyện phong thổ chí
lược” của Bùi Dương Lịch thì Quận công Lê Thọ Vực người huyện Vĩnh Lộc
(Thanh Hóa) đã đem tù binh Chiêm Thành về đây lập Sở Đồn điền và dựng nên nhiều
làng xã mới quanh vùng. Chales Robequain trong cuốn “Tỉnh Thanh Hóa” xuất bản năm 2012 nhận định: “Rất nhiều vùng quần
cư khác đã viện ra một ông tổ người Chăm đã từng giúp vua Lê Lợi đánh thắng
quân Trung Hoa, và không rõ tên. Vào năm 1478, vua Lê Thánh Tông đã cho hậu duệ
người ấy được phép khai khẩn trên nhiều điểm trong tỉnh, những đất đai sau này
sẽ trở thành tài sản riêng của họ, coi như của kế thừa. Như vậy, đã lập nên 38
làng, giữa những làng khác trong huyện Nông Cống (Thanh Hóa): Đồng Lương, Thanh
Ban (tổng Vạn Thiện), Lê Đông (tổng Hữu Định), Ngọc Uyên (tổng Cổ Định, tổng
này có người Chăm tên là Đỗ Chế Mân, khi mất được chôn cất trong đất của chúa
Ngọc Uyên), Đô Xá (tổng Đô Xá); trong phủ Quảng Hóa, Phú Sơn (tổng Cao Mật);
trong huyện Yên Định, Đồng Tình (tổng Đa Lộc), Chú Lai và Mai Trang (tổng Đông
Lý); trong huyện Hậu Lộc, Du Trường (tổng Du Trường); trong phủ Hoằng Hóa,
Nghĩa Phú (tổng Dương Sơn); trong phủ Tĩnh Gia, Liên Hồ (tổng Liên Trì)…”
Những
làng ở Thanh Hóa có binh lính người Chăm bị quan quân người Việt giam giữ làm
nhiệm vụ khai khẩn đất hoang, sau đó họ được thành lập làng và trở thành cư dân
của làng, được cấp đất làm ăn sinh sống ở miền duyên hải như: Đồn Điền (xã
Quảng Thái), sinh sống chủ yếu bằng nghề đánh cá, lập làng vào năm 1473 do Lê
Chính Đạo gốc Chăm được vua Lê Thánh Tông phong tước công; làng Xuân Phương (xã
Quảng Châu), làng Du Vịnh (xã Quảng Vinh), làng Ngọc Giáp, Phú Xá, làng Đa
Lộc…thuộc huyện Quảng Xương; vùng đồng bằng là làng Đại Khánh (huyện Thiệu
Hóa), Bồ Lồ trang (xã Đông Thanh, huyện Đông Sơn), làng Bồ Lô, làng Thiết Cương
(huyện Triệu Sơn), làng Diên Hy (xã Định Hưng, huyện Yên Định)
Người
Chăm có hai bộ tộc chính là bộ tộc Dừa (Narikelavamsa) và Cau (Kramukavamsa).
Bộ tộc Dừa sinh sống ở Amaravati và Vijaya, bộ tộc Cau sinh sống ở Kauthara và
Pandaranga. Ở Thanh Hóa không có nơi nào có nhiều dừa như huyện Hoằng Hóa,
nhiều nhất phải kể tới xã Hoằng Lộc, cả làng là một màu xanh bát ngát của cây
dừa. Sự thật thì cau, dừa không phải là giống cây bản địa của người Việt mà
chúng có nguồn gốc của Mã Lai đảo. Liệu có phải chính người Chăm đã đem cây dừa
đến đây trồng bên bờ sông Chu, sông Mã, tạo nên cảnh trí đặc biệt khác lạ của
làng quê xứ Thanh so với phần còn lại của đồng bằng Bắc bộ và miền Bắc Việt
Nam.
Trong
khai thác ngầm nguồn nước, người Thanh Hóa nói riêng và người Việt nói chu
chung đã học hỏi được nhiều từ kinh nghiệm của người Chăm. Giếng Chăm ở Thanh
Hóa là minh chứng hùng hồn về sự học hỏi này. Giếng Chăm có hai kiểu dáng:
Miệng tròn đáy vuông và miệng vuông đáy vuông. Kiểu giếng “miệng vuông đáy
vuông” là phố biến và nhiều hơn cả, đây là kiểu giếng rất đặc trưng không lẫn
với các giếng của người Việt xứ Thanh. Kiểu giếng “miệng tròn đáy vuông” có ở
làng Thượng Phú, xã Hà Đông, huyện Hà Trung. Kiểu giếng “miệng vuông đáy vuông”
có nhiều ở Nghi Sơn, huyện Tĩnh Gia, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa… Với các
giếng nước Chăm ở Thanh Hóa đã cho thấy rõ, chủ nhân của các giếng nước là
người Chăm, và như vậy kinh nghiệm khai thác nguồn nước ngầm phục vụ cho sinh
hoạt hàng ngày và tưới tiêu cho nông nghiệp là nét nổi bật trong sự giao lưu
văn hóa Thanh Hóa – Chăm Pa từ rất lâu trên xứ sở này.
Nếu
kỹ thuật làm thuyền của người dân ven biển Thanh Hóa trước kia là những bè mảng
thô sơ chỉ có thể đánh bắt cá gần bờ, thì người Chăm đã đem đến đây nghề đóng
ghe bầu (thuyền mành); thuyền có tải trọng hàng chục tấn, giúp cho các thương
nhân Ba Làng (huyện Tĩnh Gia), Hoằng Phụ (huyện Hoằng Hóa) …vươn ra biển lớn
đem hải sản tới nhiều miền đất nước như Kinh Kỳ - Kẻ Chợ, Phố Hiến để bán đổi
lấy vải vóc, lương thực.
Nghề
làm gốm làng Vồm (làng Đại Khánh, xã Thiệu Khánh, huyện Thiệu Hóa) vốn là nơi
cư trú của các tù binh Chăm với kỹ thuật làm gốm không dùng bàn xoay, đốt bằng
rơm, trấu. Thể hiện khiếu thẩm mỹ, bàn tay tài hoa của nghệ nhân Việt – Chăm
Pa.
Sử
sách có nói năm 982, sau khi bình Chiêm, Lê Hoàn đã chiêu nạp tù binh Chăm,
trong đó có nhiều nghệ nhân đục đá có tiếng. Làng Nhồi (trước đó có tên là An
Hoạch) chính là nơi có nhiều nghệ nhân đục đá Chăm đến ở. Ảnh hưởng của nghệ
thuật chạm khắc đá của người Chăm đã tạo nên thương hiệu độc đáo của nghề chế
tác đá làng Nhồi, đưa làng Nhồi lên ngôi vị độc nhất vô nhị ở xứ Thanh trải qua
hàng mấy trăm năm. Nhà nghiên cứu Lê Quốc Việt trong “Văn bia Thanh Hóa thời Lý
Trần, Nxb Thanh Hóa, 2012” có
nhận xét rất đáng chú ý: “Không rõ công trường An Hoạch có mặt thợ đá người
Chăm Pa từ khi nào…Luận điểm về dòng họ Lỗi/ Lồi/ Nhồi ở An Hoạch có gốc từ
Chăm Pa cơ chừng có lý khi đi sâu vào bóc lớp nền điêu khắc của Đại Việt trong
mối tích hợp giữa tạo hình Đường Tống và kỹ thuật Chăm Pa, đặc biệt là khả năng
thâm diễn phù điêu và tượng tròn. Nếu như vương quốc Chăm Pa được ví như là
ngôi đền của điêu khắc, thì người dân Chăm Pa là hiện thân của những nghệ sĩ
tài hoa. Họ trở thành tù binh của Đại Việt sau những lần vó ngựa Nam chinh,
nhiều bí quyết xây dựng và kỹ thuật chạm khắc theo bước chân họ mà du nhập ra
Bắc, theo đó mà kéo theo sự dịch chuyển phong cách thẩm mỹ của Đại Việt. Trong
bối cảnh đó, An Hoạch vô hình chung trở thành công trường khổ sai tù đày những
nghệ sĩ tài hoa.”
Bệ
thờ Phật chùa Hoa Long ở làng Trung, xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc cho thấy sự
ảnh hưởng của nghệ thuật điêu khắc Chăm trong các biểu tượng Phật giáo ở Thanh
Hóa đã đạt tới độ tinh xảo, tài hoa. Hình ảnh các thiếu nữ được tạc trên bệ thờ
sôi động tràn đầy sức sống với bộ ngực căng tròn, bụng nở, bắp đùi thon thả,
trang phục mỏng, mềm mại thả dài xuống gót chân, lượn lờ theo bước nhảy, hai
chân khuỳnh ngang, một chân trụ vững, chân kia nhón gót như đang quay tròn theo
nhịp quay của thân và tay. Bệ thờ Phật này cho thấy sự giao lưu, tiếp nhận của
nghệ thuật Việt – Chăm Pa hòa quện vào nhau, tạo nên sức sống mới qua bàn tay
tài hoa và khiếu thẩm mỹ, tư duy nghệ thuật của các nghệ nhân Việt – Chăm trên
mảnh đất xứ Thanh.
Tôn
giáo, tín ngưỡng Chăm Pa đã theo đường biển du nhập vào Thanh Hóa từ rất sớm.
Tại đền Độc Cước ở Sầm Sơn có thờ vị thần một chân in đậm tục thờ vị tu sĩ Ny
Kiều Đà, tức Đại Kỳ Na của vương quốc Chăm Pa với phép tu đứng một chân, xoay
theo hướng mặt trời. Ngay cả kiến trúc đền Độc Cước cũng có sự tiếp thu cách
xây đền tháp Chăm Pa.
Việc
chôn cất người chết với hình thức địa táng “thượng sàng hạ mộ” và thi hài người
chết quàn trong mộ đá rất hiếm gặp ở Bắc bộ. Ở Thanh Hóa ta bắt gặp hình thức
an táng này tại làng Bột (huyện Hoằng Hóa). Thi hài không cải táng, kiêng đào
mộ lên, trên đầu ngôi mộ đặt hai phiến đá.
Các
trò diễn dân gian xứ Thanh mang đậm dấu ấn văn hóa Chăm Pa có thể kể như: trò
Xuân Phả, trò Xiêm Thành (một cách gọi khác về Chiêm Thành). Trò Thiếp ở Đông
Sơn với nhân vật thầy bèo chữa bệnh ma gà cho một đứa bé Xiêm, ngoài ra còn có
các nhân vật đầy tớ, ông thầy…đều mang địa danh và ngôn ngữ đặc trưng của người
Chăm. Múa chèo thuyền ở Viên Khê (Đông Sơn), Phúc Tiên (Hoằng Hóa), trò Thủy
(Đông Sơn), chèo cạn – hát đưa linh đám tang ở Đồn Điền (Quảng Thái) cũng thể
hiện đậm đặc dấu ấn văn hóa Chăm đối với sinh hoạt hội hè, lễ nghi ở Thanh Hóa.
Trong
lịch sử quan hệ và bang giao giữa hai nước Đại Việt và Chăm Pa đã từng diễn ra
sự kết hôn của cư dân hai nước. Vua Lê Thần Tông đã kết duyên với bà phi người
Chăm, nay tượng bà vẫn được thờ với vua Lê Thần Tông và 4 bà phi ở di tích chùa
Đại Bi, thành phố Thanh Hóa. Mối lương duyên ấy giữa quan quân Đại Việt với một
số phụ nữ Chăm còn lưu dấu tại đền Ngốc Cùng, nơi có đông người Mường sinh sống
ở Cẩm Thủy và Mỵ Ê công chúa, đền thờ ở làng Diên Hy (Yên Định)… phụng thờ các
bà chúa người Chăm.
Qúa
trình bảo vệ Đại Việt và mở mang bờ cõi, có nhiều vương triều là người Thanh
Hóa (Dương Đình Nghệ, tiền Lê, Hồ Qúy Ly, hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, nhà
Nguyễn…), nhiều con em nơi đây đã theo các vị tướng lĩnh, vua quan của các
triều đại phong kiến Việt Nam tiến hành cuộc “Nam tiến”, bởi vậy đã mang đến
cho miền đất xứ Thanh sự giao thoa, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp với văn
hóa Chăm Pa. Giao lưu, hội nhập văn hóa là quy luật tất yếu ở mọi thời đại, mọi
quốc gia, mọi vùng lãnh thổ. Dấu ấn văn hóa Chăm qua trường kỳ lịch sử trên đất
Thanh Hóa là ví dụ sinh động cho sự giao lưu và hội nhập văn hóa của hai vùng
đất trọng yếu ngày nay của đất nước. Dấu ấn văn hóa Chăm được thể hiện khá đa
dạng qua văn hóa tộc người, dân ca, dân vũ, trong tín ngưỡng, tôn giáo và nghệ
thuật điêu khắc. Trong quá trình giao lưu và hội nhập với bên ngoài (ở đây cụ
thể là văn hóa Chăm) văn hóa Thanh Hóa vừa khẳng định được những giá trị trường
tồn vốn có, lại vừa tiếp thu được những yếu tố tốt đẹp của văn hóa Chăm Pa, làm
giàu thêm tinh thần và văn hóa xứ Thanh trong đặc thù Địa chính trị - Địa quân sự là phên dậu, là vùng đất mở của Đại
Việt xưa kia và Việt Nam ngày nay.
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Thanh Hóa ngày 23.11.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét