Home
» Lý luận phê bình
» Cũng chỉ là lời Đồn (Trao đổi với Lưu Na về bài thơ Sông Lấp) – Phạm Đức Nhì (USA)
Cũng chỉ là lời Đồn (Trao đổi với Lưu Na về bài thơ Sông Lấp) – Phạm Đức Nhì (USA)
Thứ Sáu, 23 tháng 10, 2015
Khi bài viết “Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích” phóng đi được ít hôm tôi
nhận được vài emails – khen có, và chê cũng có. Tôi đã trả lời độc giả bằng thư
riêng. Người khen thì dĩ nhiên không có ý kiến gì thêm, còn người chê có hài
lòng với câu trả lời của tôi hay không, thú thật là tôi không biết. Đặc biệt có
một nữ độc giả, Lưu Na trẻ hơn tôi mấy tuổi, là một cây viết kỳ cựu (ít nhất
cũng hơn tôi) trên trang web văn học T- Vấn & Bạn Hữu, đã có hẳn một bài
viết (ngắn) trên trang web ấy liên quan đế bài Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích
của tôi.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Quê
quán: Việt Nam
Hiện
định cư tại Galveston, Texas
Email: nhidpham@gmail.com
_____
CŨNG CHỈ LÀ LỜI ĐỒN
(Trao đổi với Lưu Na về bài thơ Sông Lấp)
Khi bài viết Sông Lấp - Một Bài Thơ
Toàn Bích phóng đi được ít hôm tôi nhận được vài emails – khen có, và chê cũng
có. Tôi đã trả lời độc giả bằng thư riêng. Người khen thì dĩ nhiên không có ý
kiến gì thêm, còn người chê có hài lòng với câu trả lời của tôi hay không, thú
thật là tôi không biết. Đặc biệt có một nữ độc giả, Lưu Na trẻ hơn tôi mấy
tuổi, là một cây viết kỳ cựu (ít nhất cũng hơn tôi) trên trang web văn học T-
Vấn & Bạn Hữu, đã có hẳn một bài viết (ngắn) trên trang web ấy liên quan đế
bài Sông Lấp - Một Bài Thơ Toàn Bích của tôi.
Sau đây là nguyên văn bài viết:
Lưu Na: Đồn
Nhân đọc
bài Sông
Lấp– Một Bài Thơ Toàn Bích của Phạm Đức Nhì, chợt
nhớ một lời đồn.
Đại khái là Tú Xương có giao tình với Phan
Bội Châu lúc đó đang trong phong trào chống Pháp. Chỗ bến đò mà Tú Xương
cảm hoài chính là chỗ ban đêm nghĩa quân lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để
làm hiệu. Khi đã xảy đàn tan nghé, ông tú Vị Xương mới đêm nằm nghe ếch
bên tai mà nhớ lúc xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng ai gọi đò.
Không biết điều ấy thật bao nhiêu vì Tú
Xương không bao giờ nói cho chúng ta biết, nhưng cái lời đồn đó làm cho bài thơ
càng thêm nỗi ngậm ngùi, vì tang thương của đất trời chồng lên thêm với cái dâu
bể của thời cuộc. Cái buồn trong hơi thơ của Tú Xương càng sâu lắng.
Cũng trong cái khoảng thời gian chống Pháp
ấy thì nghĩa quân phải sinh hoạt như một hội kín, lúc hội họp gặp nhau hân hoan
tình đồng chí đệ huynh, mà ra khỏi chốn bí mật ấy thì buồn bã phải coi nhau như
người dưng nước lã, nên thành câu sao đang vui vẻ ra buồn bã _ vừa mới
quen thân đã lạ lùng.
Đó là bài thơ Nhớ Bạn Phương Trời
của Trần Tế Xương:
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa xa có nhớ ta không
Sao đang vui vẻ ra buồn bã
Vừa mới quen thân đã lạ lùng
Khi thấy thấy gì trong mộng tưởng
Nỗi riêng riêng đến cả tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn xanh trống điểm
thùng
Bài
thơ được cho là lời nhắn gửi âm thầm đến Phan Bội Châu, một tâm tình nhớ bạn
_ ta nhớ người xa cách núi sông,
người xa, xa có nhớ ta không. Những câu sau nói lên hoàn cảnh tâm tình của
lớp người chống Pháp. Sinh hoạt trốn lánh kiểu hội kín (mượn chữ của Tạ
Chí Đại Trường), nỗi niềm riêng phải sống để dạ chết mang theo chứ không thể
thổ lộ ngay cả với người đồng tịch đồng sàng _ nỗi riêng riêng đến cả tình chung.
Trong
đêm vắng nỗi buồn thật mênh mang _ một ngọn đèn một tiếng trống, lại nhuốm chút
đắng cay chua chát, đó chính một trademark trong hơi thơ của Tú Xương, trong
những lời kiêu bạc mà chứa đầy nỗi cô đơn:
Tương tư lọ phải là trai
gái
Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng
Nói
cho ngay tình, cả cái tựa của bài bài thơ nhớ bạn tôi cũng không dám chắc là
đúng, và những gì đọc được cũng chỉ là đồn đoán (bàn đề!!!!) khi còn đang học
trung học, nhưng lúc đó đọc được 2 câu đầu thôi mà nỗi buồn man mác không nói
ra lời vương mãi vào lòng.
Phải
chăng lời đồn cũng có lời thi vị làm mình muốn nhớ hoài?
01/09/2014
nguồn: t-van.net
Và đây
là bài viết trả lời của Phạm Đức Nhì:
CŨNG CHỈ
LÀ LỜI ĐỒN
“Mẩu
viết ngắn” với cái tựa chỉ có một chữ Đồn nhưng đã thổi một luồng gió mát vào
bài viết khá khô khan của tôi. Trong số những phản hồi về bài viết Sông Lấp
-Một Bài Thơ Toàn Bích, tôi thích nhất là “mẩu viết ngắn” ấy. Nó đã cho người
đọc một góc nhìn mới về bài thơ Sông Lấp và đưa dẫn tứ, ý của bài thơ về một
chân trời mới. Theo Lưu Na, tác giả của “luồng gió mát”, thì có lời đồn như
sau:
Đại khái là Tú Xương có giao tình với Phan Bội Châu lúc đó
đang trong phong trào chống Pháp. Chỗ bến đò mà Tú Xương cảm hoài chính
là chỗ ban đêm nghĩa quân lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để làm hiệu.
Khi đã xảy đàn tan nghé, ông Tú Vị Xương mới đêm nằm nghe tiếng ếch bên tai mà
nhớ lúc xưa, và giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng ai gọi đò…
Lời đồn ấy có
thể tin được lắm chứ! Phan Bội Châu sinh năm 1867, lớn hơn Tú Xương 3 tuổi, đỗ
Giải Nguyên năm 1900.
Trong
vòng 5 năm sau khi đỗ Giải nguyên, Phan Bội Châu bôn ba khắp nước Việt
Nam kết giao với các nhà yêu nước như Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Nguyễn Thượng Hiền, Nguyễn Hàm (tức Tiểu La Nguyễn Thành), Đặng Nguyên Cẩn, Ngô Đức Kế, Đặng Thái Thân, Hồ Sĩ Kiện, Lê Huân, Nguyễn Quyền, Võ Hoành, Lê
Đại,...(1)
Tuy Tú Xương không nằm trong
danh sách những nhà yêu nước - cùng với Phan Bội Châu - có những hoạt động tích
cực chống Pháp, nhưng với văn tài, với những bài thơ thấm đẫm lòng yêu nước của
ông, việc Phan Bội Châu có giao tình với ông là việc có thể xảy ra lắm. Thêm
vào đó lại còn bài thơ Nhớ Bạn Phương Trời (2)
Ta nhớ người xa cách núi sông
Người xa, xa lắm, nhớ ta không?
Sao đang vui vẻ ra buồn bã?
Vừa mới quen nhau đã lạ lùng
Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng
Nỗi riêng riêng cả đến tình chung
Tương tư lọ phải là trai gái
Một ngọn đèn khuya trống điểm
thùng
thì
tra cứu trong tập Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình, tôi thấy ở phần chú
thích đã được ghi rõ ràng là: “Bài này tác giả viết tặng Phan Bội
Châu”. Như vậy, phần đầu của lời đồn về mối giao tình đã trở thành sự
thật. Riêng phần còn lại của lời đồn:
Chỗ bến đò mà Tú Xương cảm hoài chính là chỗ ban đêm nghĩa
quân lén qua sông nên giả tiếng ếch kêu để làm hiệu. Khi đã xảy đàn tan
nghé, ông Tú Vị Xương mới đêm nằm nghe tiếng ếch bên tai mà nhớ lúc xưa, và
giật mình còn ngỡ (tưởng) tiếng ai gọi đò…
thì chưa thể kiểm chứng
được.
Thôi
thì cứ cho toàn bộ lời đồn ấy là thật và xem lại bài Sông Lấp của Tú Xương:
Sông xưa rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng
ai gọi đò.
trong đó tiếng
ai gọi đò (chữ nghiêng
đậm) ám chỉ tiếng ếch kêu làm hiệu của nghĩa quân để gọi đò qua sông. Bốn chữ tiếng ai gọi đò được viết nghiêng là để phân biệt với
tiếng gọi đò bình thường của khách trong cuộc sống hàng ngày ở bến đò. Để người
đọc có thể hiểu được cái ẩn ý ấy người làm thơ phải có một đoạn chú thích.
Nhưng có những bài thơ sử dụng
phép ẩn dụ mà lại ở vào thế “tấn thối lưỡng nan”, nghĩa là có hai đặc tính mâu
thuẫn: bất khả
chú thích và bất khả liên tưởng. Tác giả
không thể chú thích rõ ràng để người đọc dễ hiểu, thường là vì ba lý do:
1) An ninh: có thể bị tù
tội, có khi mất đầu.
2) Tế nhị: không muốn
công khai xúc phạm đối tượng của phép ẩn dụ; như thế sỗ sàng quá.
3) Kỹ thuật thơ: chú
thích sẽ “bật mí” ẩn ý, sẽ giết chết phép ẩn dụ.
Còn người đọc thì không thể dùng khả năng
liên tưởng để hiểu ý được vì khoảng cách giữa tứ và ý quá xa, không thể bắc
cầu.
Bài thơ
Sông Lấp (nếu chấp nhận toàn bộ lời đồn là thật) ở vào trường hợp này.
Nhà thơ ở vào thế “bị triệt buộc”: bất khả
chú thích , bất khả liên tưởng. Nếu chú thích sẽ vô hiệu hóa phép ẩn dụ; nếu
không chú thích thì người đọc sẽ không thể lần ra ẩn ý của mình. Trường hợp
chấp nhận hy sinh phép ẩn dụ để đi về hướng lời đồn, đưa đoạn chú thích vào bài
bình thơ thì, bài thơ, dù vẫn còn nguyên 4 câu, 28 chữ (không thay đổi chữ nào)
nhưng cấu tứ đã trở nên rời rạc, lỏng lẻo.
Hồn cốt của bài thơ hoàn toàn nằm
trong tiếng ếch và tiếng gọi đò. Con sông còn đấy hay đã bị lấp cũng không quan
trọng. Giả sử gia đình ông Tú dời nhà xa hẳn con sông Vị Hoàng. Cơn mưa đêm vừa
tạnh; tiếng ếch kêu từ ruộng mạ nhà ai vọng lại; ông giật thót mình rồi cao
hứng viết bài thơ. Lúc ấy chỉ tiếng ếch kêu cũng đủ gợi nhớ đến tiếng gọi đò
của nghĩa quân. Hai câu đầu và cả cái tựa Sông Lấp của bài thơ cũng có thể vứt
đi để thay bằng hai câu khác, cái tựa khác, mà vẫn không ảnh hưởng gì đến tứ
thơ.
Mất đi phép ẩn dụ tài tình, mất đi tính
chất đắc địa của câu chữ, Sông Lấp, với cách hiểu ấy, đã mất hẳn bản sắc của
nó, chắc không thể có chỗ đứng trang trọng trong lòng người yêu thơ như ngày
hôm nay.
Để viết
những bài bình thơ tác giả thường dựa vào văn bản, lịch sử, văn học sử, sự hiểu
biết về thơ, kinh nghiệm làm thơ và một chút trực giác trong việc cảm nhận thơ ca
của mình. Những giai thoại, những lời đồn trong làng thơ, theo tôi, chỉ nên
được xem như những chiếc lá, những bông hoa trang điểm chứ không nên đưa vào
làm thân, làm gốc cho một bài bình thơ.
Nhưng dù sao đi nữa cũng xin thành thật cám
ơn Lưu Na. “Mẩu viết ngắn” của Lưu Na đã làm bài viết của tôi tươi mát hơn. Tôi
đã có dịp nhìn lại bài thơ Sông Lấp một lần nữa, kỹ càng hơn, cẩn trọng hơn. Và
đã nhận ra rằng: “Lời đồn, dù có căn cứ, dù đầy tính thuyết phục, cũng chỉ là
…lời đồn.”
----
Chú thích:
(1) Wikipedia.org
(2) Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX,
Thơ Trữ Tình, NXB Giáo Dục, 2004 (tr.914)
--------------
PHỤ LỤC:
SÔNG
LẤP: MÔT BÀI THƠ TOÀN BÍCH
Sau buổi nhậu cuối tuần, mấy thằng bạn ngồi
uống trà, cà phê bù khú chuyện văn chương. Được một lúc, câu chuyện lan man đến
thơ: làm thơ nên làm thơ dài
hay thơ ngắn? Một ông bạn,
sau khi nói một câu ba phải để vừa an toàn (khỏi sợ sai) vừa hợp lòng mọi
người: “Thơ dài hay ngắn hoàn toàn tùy sở thích của thi sĩ”, rồi có lẽ do thúc
đẩy của hơi men, bỗng nổi hứng tuyên bố thẳng thừng:
“nhưng những bài thơ ngắn quá (4 câu hoặc
ít hơn) không đủ để tác giả bày tỏ lòng mình; nó giống như mấy thằng cha mắc
chứng sậu tinh, chưa nhập cuộc đã khóc ngoài quan ải, chưa đi đến chợ đã hết
tiền, để người bạn tình nằm tô hô, thất vọng trên giường.”
Vâng! Tôi nhiều khi đọc thơ, cũng có cái
cảm giác thất vọng như cô gái “nằm tô hô trên giường.” Một bài thơ ngắn quá,
chỉ giống như một màn đá phạt trong bóng đá, một pha phối hợp nhỏ của 2, 3 cầu
thủ phe mình để vượt qua một cầu thủ đối phương. Ở đây kỹ thuật cá nhân được
tận dụng tối đa; cầu thủ có thể phô diễn tài đi bóng, che bóng, lừa bóng, hoặc
sút bóng bay theo đường vòng cung vào lưới. Nhưng người ta không thấy được sự
lên xuống nhịp nhàng của cả 11 cầu thủ trên sân, không có cơ hội để thấy được
tài của huấn luyện viên trong việc tổ chức, phối hợp đấu pháp toàn đội. Trong
một bài thơ ngắn thi sĩ phải chắt lọc từng chữ, từng câu để tự nó tạo được âm
vang, hình ảnh đặc biệt, hầu lưu lại một chút dấu ấn trong lòng người đọc, bởi,
với số chữ giới hạn, ông không có chỗ, không đủ thời gian đào con mương, trút
cảm xúc trong lòng mình xuống để nó cuồn cuộn chảy thành dòng, sóng sau dồn
sóng trước như thác đổ, khuấy động tâm hồn người đọc. Trong một bài thơ quá
ngắn người đọc không có dịp để thấy cái bề thế của trận địa chữ nghĩa. Nó chỉ
như một cuộc phục kích, đột kích cấp tiểu đội, trong đó người chỉ huy không có
dịp để nghe tiếng rít xé trời của phản lực, tiếng gầm của hải pháo và pháo binh
diện địa, tiếng ầm ì của thiết giáp, và đặc biệt, không có dịp để thấy từng
đoàn quân, từng đoàn quân, hàng hàng lớp lớp tiến lên chiếm lĩnh mục tiêu.
Với Sông Lấp của Tú Xương, một bài thơ rất
ngắn, chỉ có 4 câu lục bát 28 chữ, người ta phải xem nó là một ngoại lệ rất
hiếm hoi.
Trước khi quay lại cái giai đoạn lịch sử
cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 để tìm hiểu bối cảnh văn hóa, xã hội của Việt Nam
lúc tác giả viết Sông Lấp rồi phân tích để tìm cái hay của bài thơ, tôi xin kể
một kinh nghiệm đã trải qua để làm thí dụ so sánh.
Có một dạo tôi bị nhốt xà lim ở A20,
Xuân Phước. Chế độ ăn uống ở xà lim cực kỳ hà khắc. Mỗi ngày 2 bữa. Mỗi bữa chỉ
có 2 muỗng cơm và 2 muỗng nước. Đến ngày thứ 20 trở đi, vì không có chất bổ
dưỡng và mất nước, các tế bào nằm chết xếp lớp trên người tôi, tạo thành những
lớp da cứ bong ra như vẩy cá. Tôi ngồi bóc hết lớp da này đến lớp da khác và
nhìn thân người mình cứ teo tóp đi một cách rõ ràng. Đến ngày thứ 40 thì mông
và bắp đùi đã gần như không còn thịt nữa….Đến ngày thứ 50 thì toàn thân chỉ còn
một lớp da mỏng bọc xương, ngực thì có thể nhìn thấu từng mảnh xương sườn, đầu thì
như một cái sọ dừa khô. Lúc ấy, thỉnh thoảng mê thiếp đi, tôi đã thấy thần
chết, tay cầm lưỡi hái, từng bước đến gần bệ nằm của mình mà chân thì bị cùm,
cửa xà lim thì đóng kín, khóa chặt, không làm sao chạy thoát được. Cái cảm giác
ấy thật đáng sợ đến rùng mình.
Với Tú
Xương thì lại khác. Nỗi sợ đến độ ám ảnh của tôi là sự suy kiệt thể xác. Với
ông, là sự mất mát tinh thần. Ông không có cái vinh dự đỗ đầu cả 3 kỳ thi như
Tam Nguyên Yên Đỗ, hoặc khiêm nhường hơn, đỗ Giải Nguyên (đầu thi Hương) như Nguyễn
Công Trứ để được bổ quan, đem tài sức của mình phục vụ quê hương, đất nước. Ông
chỉ đỗ Tú Tài (Tú rốt bảng trong năm Giáp Ngọ), không được vua ban áo mão, vinh
quy bái tổ, sau đó được bổ quan cửu phẩm, như những ông Nghè, ông Cống. Nhưng ở
làng Vị Xuyên quê ông, ông cũng được tiếp rước long trọng, nở mày, nở mặt với
bà con, thôn xóm. Trong những buổi hội họp, tiệc tùng, đình đám, ông lại còn
được vinh dự ngồi chiếu tiên chỉ (1). Hơn nữa, với sự tự tin vào văn tài của
mình, với một tinh thần minh mẫn trong một thân thể khỏe mạnh của tuổi trung
niên, đường thi cử của ông vẫn còn rộng mở. Ông có lý do để hy vọng. Hy vọng
một ngày nào đó đỗ đạt cho bõ công đèn sách, đền đáp công lao của bà vợ đảm
đang, đem tài sức phục vụ đất nước.
Nhưng thời thế không đứng về phía ông.
Những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, nước Việt Nam đã bị người Pháp hầu như
nắm toàn quyền cai trị. Triều đình bù nhìn nhà Nguyễn chỉ có quyền bổ nhiệm một
số chức quan “hữu danh vô thực”, còn những chức vụ có thực quyền lèo lái guồng
máy hành chánh của đất nước, đại đa số đều do người Pháp chỉ định. Ở miền trung
và miền bắc, thi Hương chưa bị chính thức bãi bỏ nhưng số người học chữ Nho đã
thưa giảm rất nhiều. Chính Tú Xương đã phải lên tiếng xác nhận:
Cái học nhà Nho đã hỏng rồi
Mười người đi học chín người thôi.
(Cái Học
Nhà Nho)
Ngay cả
việc thi cử cũng không còn cái vẻ nghiêm trang, long trọng như ngày xưa
Lọng cắm rợp trời, quan Sứ đến,
Váy lê quét đất, mụ đầm ra.
(Vịnh Khoa Thi Hương)
Mà dù
có đỗ đạt đi nữa cũng đâu còn cái vinh dự, cái niềm tự hào như thời đất nước
còn độc lập, tự chủ
Một đàn thằng hỏng đứng mà trông
Nó đỗ khoa này có sướng không
Trên ghế bà đầm ngoi đít vịt,
Dưới sân ông cử ngỏng đầu rồng!
(Giễu Người
Thi Đỗ)
Thêm
vào đó, người Pháp cũng đã mở trường huấn luyện và một số kỳ thi riêng của họ
để chọn người làm việc. Và cũng chính Tú Xương đã phải cay đắng than thở:
Nào có ra gì cái chữ Nho
Ông Nghè, ông Cống cũng nằm co
Chi bằng đi học làm thầy Phán
Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò.
(Chữ Nho)
Từng
ngày, từng tháng trôi đi. Khung cảnh chính trị, văn hóa, xã hội không ngừng đổi
thay trước mắt theo chiều hương xấu. Kho kiến thức sau bao năm đèn sách của ông
– như đồng tiền trong một nền kinh tế lạm phát phi mã – ngày càng giảm giá trị.
Con người sinh học của Tú Xương vẫn còn lây lất sống, nhưng trong tâm hồn ông,
niềm hy vọng, niềm tin vào tương lai, đang đi dần đến cõi chết, không còn
phương cứu vãn. Bài thơ Sông Lấp đã được viết trong hoàn cảnh đó.
SÔNG LẤP
Sông xưa rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Tứ: Nghe tiếng ếch vọng lại từ khu nhà,
vườn tược được xây dựng ngay trên lòng sông Vị Hoàng (nay đã bị lấp), tác giả
giật mình tưởng tiếng gọi đò vọng lại và nhớ đến bến đò cũ, con sông xưa.
Ý: Tác giả nhớ thương, tiếc nuối cái thời
Nho học - mà tác giả là một sĩ tử - còn được coi trọng.
Năm
1832, sau khi triều đình cho đào sông
Đào thay thế vai trò của sông Vị Hoàng, nhằm rút ngắn lộ
trình đường thuỷ. Sông Vị Hoàng trở nên kém tác dụng và bị phù sa lấp dần.
Cuối thế kỷ XIX, do cần đất để xây dựng các công sở, người Pháp đã lấp sông Vị
Hoàng, vì thế con sông này không còn nữa. Nhiều người gọi là sông Lấp, ấy là
gọi để nhớ thế thôi, chứ sông đã lấp rồi thì sao còn sông nữa (2).
Dựa vào
2 câu cuối của bài thơ tôi có thể suy luận ra mấy điều sau:
- Khúc sông Vị Hoàng chảy qua khu nhà của
Tú Xương thuộc làng Vị Xuyên không có cầu bắc qua sông.
- Nhà ông Tú không ở sát, nhưng cũng không
xa bến đò ngang lắm; ở đấy có thể nghe được tiếng gọi đò vọng lại.
- Ông rất nặng lòng với khúc sông đầy
kỷ niệm, với quãng đời lúc con sông chưa bị lấp, đến nỗi chỉ “vẳng nghe tiếng
ếch bên tai” ông cũng giật mình tưởng tiếng gọi đò từ những năm xưa cũ.
- Nhưng nếu “vẳng nghe tiếng ếch bên
tai” mà người đọc chỉ tưởng “tiếng ai gọi đò” để từ đó nhớ đến bến đò ngang
cạnh nhà ông và rồi đến con sông Vị Hoàng ngày xưa (nay đã bị lấp) thì … bất
công với Tú Xương quá. Nếu dòng liên tưởng chỉ dừng ở đấy thì bài thơ đã bị
giảm đi ít nhất 90% giá trị nghệ thuật. Nếu chỉ có thế người ta đâu có gọi Sông
Lấp là “tiếng thở dài thế sự” của Tú Xương. Dĩ nhiên, ông cũng nhớ đến
con sông mà vợ ông đã “quanh năm buôn bán” ở đó để nuôi sống một gia đình đông
đúc “năm con với một chồng”. Nhưng con sông chỉ đóng vai chiếc cầu để ông trở
về cái thời tạm gọi là vàng son của ông, cái thời còn ngồi chiếu tiên chỉ của
làng Vị Xuyên, cái thời mà mọi người gọi ông là Ông Tú với giọng kính trọng một
nhà nho có văn tài, cái thời ông còn tràn trề hy vọng khi nghĩ đến kỳ thi sắp
tới, và trong lòng ông, niềm tin ở quê hương đất nước vẫn còn rực sáng.
Còn cái lúc ông viết Sông Lấp, ách cai trị
của người Pháp đã lan tỏa, đã xâm nhập vào mọi ngõ ngách của cuộc sống người
dân Việt, nền Nho học đang lụi tàn, con đường tương lai của ông đang đi vào ngõ
cụt. Ông đành quay lại nhìn, nuối tiếc cái thời xa xưa ấy để rồi buông “tiếng
thở dài thế sự”.
Nhận
Định Nghệ Thuật:
Dù bằng con mắt của người đọc
thơ khó tính, dù áp dụng cách nhìn nhận, đánh giá thơ ca của thời đại mới, tôi
tin rằng người đọc vẫn khó tìm ra khuyết điểm của bài thơ. Nhưng cái hay của
bài thơ thì lại khá nhiều và độc đáo.
1) Không có hội chứng nhàm chán vần. Những thể thơ truyền thống,
đặc biệt là thơ lục bát, rất dễ mắc phải hội chứng nhàm chán vần. Sông lấp
chỉ có 4 câu, quá ngắn, nên thoát khỏi chứng bệnh này.
2) Tứ thơ mạch lạc, thủ pháp “show, not tell” áp dụng rất
thành công, từ liên tưởng này đến liên tưởng khác theo một trình tự hợp lý,
người đọc rất dễ cảm nhận.
3) Câu chữ đắc địa, khó thay đổi hoặc thay thế.
Chúng ta thử đọc bài thơ Không Đề, đã được
nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc khen là “một
trong những bài thơ hay nhất, hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Bính” (3)
Hôm nao dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò tìm nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…
Câu thứ
4 của bài thơ thật tuyệt vời. Đúng như Nguyễn Hưng Quốc nhận định:
Người con gái vẫn còn đứng đó, bên thành
cửa sổ, vời vợi nhìn theo. Câu thơ cắt thành ba nhịp, tưởng như mỗi nhịp ngắt
là một làn sóng đột nhiên trào lên, che khuất cánh buồm. Bao nhiêu lần khuất
rồi hiện. Lần cuối cùng, đã xa lơ xa lắc, người con gái chỉ còn nhìn thấy, mờ
thật mờ, hình ảnh cánh buồm thấp thoáng, nhòa đi trong khói sóng bập bềnh. Không
còn thấy màu sắc nữa: chữ “nâu” ở nhịp cuối biến mất (3).
Câu thứ
4 của bài thơ hay như thế, nhưng còn 3 câu đầu thì sao? Theo tôi, không đắt
lắm. Một thi sĩ nào đó có thể khá dễ dàng thay thế 3 câu đầu bằng 3 câu khác để
có những hoàn cảnh chia tay khác nhau; mẹ chia tay con, bà chia tay cháu, vợ
chia tay chồng, hai người bạn chia tay nhau… miễn sao chữ cuối của câu 3
có vần au hay âu để vần với “cánh buồm nâu” ở câu cuối.
Trong Sông Lấp mỗi chữ, mỗi câu, mỗi ý
tưởng, mỗi hình ảnh đều được xếp đặt, nối kết như một thế trận. Thật khó có thể
thay chữ này bằng chữ kia hoặc câu này bằng câu khác mà không làm giảm giá trị
nghệ thuật của bài thơ. Riêng chữ “vẳng” và 2 chữ “giật mình” thì phải nói là
đắt như kim cương. Không phải là tiếng sấm, tiếng sét, tiếng súng nổ, tiếng cãi
nhau to tiếng mà chỉ là “vẳng” nghe tiếng ếch từ xa vọng lại, cũng đủ làm ông
Tú “giật mình” nhớ đến một chuỗi những hình ảnh của quá khứ xa xưa. Tâm hồn ông
chắc phải thẳng căng như sợi dây đờn nên chỉ một chạm nhẹ cũng rung lên bần
bật, tạo nên “tiếng kêu khắc khoải” làm tái tê lòng biết bao nhiêu người đọc
thơ ông.
Hơn nữa, cái hay của Không Đề chỉ ở câu thứ
4, giống như đội bóng có một cầu thủ siêu sao. Cái hay của Sông Lấp là cái hay
tổng thể, cái hay toàn bài; ở đây, đội bóng có một huấn luyện viên tài
ba, xếp đặt 11 cầu thủ vào từng vị trí phù hợp với sở trường và lối chơi riêng
của họ, tạo được sự phối hợp gắn bó, nhịp nhàng của toàn đội. (Nếu hoán chuyển
vị trí của các cầu thủ hoặc thay thế một cầu thủ trong đội bằng một cầu thủ
khác thì hiệu quả của đấu pháp toàn đội sẽ giảm sút)
4) Có lẽ cái hay nhất của Sông Lấp, có thể tôn giá trị nghệ
thuật của bài thơ lên nhiều nhất, là phép ẩn dụ, đúng hơn phải nói là sự kết
hợp tài tình giữa thủ pháp “show, not tell” và phép ẩn dụ để diễn đạt ý của tác
giả.
Cái thú khi đọc một bài thơ có phép ẩn
dụ - tác giả nói về cái này mà ngụ ý cái kia - là lần theo tứ thơ
để tìm, để khám phá ý của tác giả. Phép ẩn dụ càng kín thì, khi người đọc, bằng
khả năng liên tưởng của mình, hiểu được, cảm thông được tâm tình mà tác giả
muốn chia sẻ, sự ngạc nhiên và thích thú càng gia tăng, bài thơ càng được đánh
giá cao.
Phép ẩn dụ trong Sông Lấp rất
kín, kín đến nỗi ngay cả có người bình bài thơ ấy cũng không thấy được, cảm được
ẩn ý của tác giả. (4) Có thể nói Sông Lấp không phải là một đoàn quân trùng
trùng, điệp điệp, nhưng lại có bề thế của một mặt trận, một điệp vụ tình báo
siêu đẳng, đưa được những điệp viên thượng thặng, bí mật nằm giữa bộ chỉ huy
của quân địch. Phép ẩn dụ ấy được kết hợp một cách tài tình với thủ pháp “show,
not tell”, tạo ra một chuỗi những chiếc cầu liên tưởng, dẫn người đọc đi từ
hình tượng này đến hình tượng khác. Từ tiếng ếch kêu, trong hoàn cảnh riêng của
mình, trong tâm tình riêng của mình, nhà thơ “tưởng tiếng ai gọi đò”. Đây là
một liên tưởng rất riêng tư; nếu ông không bộc bạch, bày tỏ thì người đọc khó
có thể đoán ra được. Biết thế nên ông đã đưa tay dắt chúng ta bước lên chiếc
cầu đầu tiên. Đến 2 chiếc cầu liên tưởng kế tiếp thì người đọc đã có thể tự
mình qua được; từ tiếng gọi đò nhớ bến đò ngang, từ bến đò ngang nhớ con sông
Vị Hoàng ngày xưa, nay đã bị lấp. Khi từ con Sông Lấp đặt chân lên chiếc cầu
sau cùng, bằng vốn kiến thức về lịch sử, văn học sử, cộng với một chút trực
giác thi ca, người đọc sẽ bắt gặp nỗi lòng sâu kín của nhà thơ: nhớ thương,
tiếc nuối cái thời tạm gọi là vàng son của mình, cái thời Nho học vẫn còn chỗ
đứng khá trang trọng trong đời sống người dân Việt. Và người đọc sẽ tròn xoe
mắt “À” lên một tiếng khoái trá.
Với Trương Kế, tiếng chuông chùa Hàn San
chính là chữ Duyên của đạo Phật, là chiếc phao giúp ông bơi vào bờ bến thi ca,
để lại cho đời một bài thơ bất hủ: Phong Kiều Dạ Bạc. Với Trần Tế Xương, tiếng
ếch giữa đêm khuya đã khiến ông giật mình thảng thốt nhớ đến bến đò cũ, con
sông xưa, và rồi từ con sông ấy đã quay lại để thương, để nhớ, để tiếc một
quãng thời gian đầy kỷ niệm của đời mình. Nhờ tiếng ếch ấy, nhờ nỗi nhớ thương,
tiếc nuối ấy, ông đã đóng góp vào kho tàng văn chương của Việt Nam và của thế
giới một tuyệt tác thi ca, một bài thơ toàn bích: Sông Lấp.
----
Chú
thích:
1/
Người đứng đầu hội đồng kỳ dịch trong làng.
- Nếu làng xét ngôi thứ trong hội đồng theo “thiên tước” thì ai cao tuổi nhất
là tiên chỉ.
- Nếu làng xét ngôi thứ trong hội đồng theo “nhân tước” thì ai đỗ cao nhất hoặc
có phẩm hàm cao nhất thì ngồi chiếu tiên chỉ. (Wikipedia Tiếng Việt)
Tú Xương tuy chỉ đỗ Tú Tài nhưng có lẽ làng
Vị Xuyên xét ngôi thứ trong hội đồng theo “nhân tước” và lúc ấy chưa có người
đỗ đạt nên ông được trọng vọng mời ngồi chiếu tiên chỉ.
3/ Tứ
Thơ, Tìm Hiểu Nghệ Thuật Thơ Việt Nam, Nguyễn Hưng Quốc
4/ Về
Bài Thơ Sông Lấp Của Trần Tế Xương, Vũ Bình Lục, lethieunhon.com
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ USA ngày
22.10.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét