Chiếc áo thiên nga – Truyện ngắn truyền kỳ Nguyễn An Bình (Cần Thơ)
Thứ Sáu, 9 tháng 10, 2015
Ngày
13/06/2013
Từ lâu
ở phía nam kinh thành Thăng Long, Vũ Sinh nổi tiếng là người có cách kể chuyện
truyền kỳ hấp dẫn, lôi cuốn. Với kiến thức uyên bác, sâu rộng Vũ Sinh đã biến
những câu chuyện trong tích xưa, truyền thuyết mà ai cũng biết thành những câu
chuyện mới mẻ tân kỳ, những lời nhận định sâu sắc không làm nhàm chán người
nghe. Thật ra Vũ Sinh không phải họ Vũ mà là họ Đào, xuất thân từ gia đình
phường hát quê Thanh Hóa, cha mẹ thấy chàng thông minh, sáng dạ nên gửi gấm
chàng cho một thầy đồ nổi tiếng trong vùng giảng dạy. Năm mười sáu tuổi thơ phú
của chàng thiếu niên họ Đào nổi tiếng một vùng.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Nguyễn An Bình
Tên
thật Lương Mành
Sinh
ngày 21-06-1954 tại An Bình Cần Thơ
Tốt
nghiệp Đại học sư phạm Văn
Chổ
ở hiện tại: Q.Ninh Kiều TP Cần Thơ
ĐT:
0909697644
Email: luongmanh2106@gmail.com
_____
CHIẾC
ÁO THIÊN NGA
Từ lâu ở phía nam kinh thành Thăng Long, Vũ
Sinh nổi tiếng là người có cách kể chuyện truyền kỳ hấp dẫn, lôi cuốn. Với kiến
thức uyên bác, sâu rộng Vũ Sinh đã biến những câu chuyện trong tích xưa, truyền
thuyết mà ai cũng biết thành những câu chuyện mới mẻ tân kỳ, những lời nhận
định sâu sắc không làm nhàm chán người nghe. Thật ra Vũ Sinh không phải họ Vũ
mà là họ Đào, xuất thân từ gia đình phường hát quê Thanh Hóa, cha mẹ thấy chàng
thông minh, sáng dạ nên gửi gấm chàng cho một thầy đồ nổi tiếng trong vùng
giảng dạy. Năm mười sáu tuổi thơ phú của chàng thiếu niên họ Đào nổi tiếng một
vùng. Nhưng theo qui định của triều đình lúc bấy giờ, con cái phường chèo hát
xướng không được ứng thí, nên chàng được mẹ đổi sang họ Vũ, giấu thân thế để
đăng ký dự thi. Năm ấy chàng đổ đầu kỳ thi hương và tiếp tục ứng thí kỳ thi
hội, Vũ Sinh được xướng danh trên bảng vàng thì có người ganh ghét tố giác tội
thay tên đổi họ, gian dối lý lịch đi thi. Thế là Vũ Sinh bị tuốt hết bằng cấp
và suýt rơi vào vòng lao lý nếu quan chánh chủ khảo năm đó không quí mến văn
tài của chàng nên xin nhà vua giảm tội nếu không bị ghép tội khi quân, coi
thường mệnh vua phép nước là cái chắc, chàng chỉ bị cấm từ nay không được ứng thí nữa nếu không sẽ
phạm tội chết. Uất ức, đau buồn Vũ Sinh biết rằng con đường công danh, cơ hội
muốn đem tài năng của mình ra giúp dân giúp nước đã mất, chàng bỏ xứ Thanh lên
Thăng Long tìm đường mưu sinh chờ cơ hội khác, trời đất run rủi thế nào để kiếm
sống Vũ Sinh hành nghề kể chuyện mua vui cho kẻ khác và không biết từ lúc nào
chàng trở thành người kể chuyện nổi tiếng của đất kinh kỳ. Vũ Sinh có lối dẫn
nhập rất độc đáo lúc là một bài thơ, bài đồng dao, một câu chuyện cổ tích, ngụ
ngôn… để vào chuyện nên ngay từ đầu đã tạo sự cuốn hút đối với người nghe.
Trong
không khí se lạnh của ngày cuối năm, ở góc phiên chợ cạnh tửu quán Vạn Xuân có
khoảng đất trống là nơi Vũ Sinh thường dùng làm nơi kể chuyện, mọi người háo
hức chờ đợi chàng kể một câu chuyện mới: Chiếc áo thiên nga. Vũ Sinh bắt đầu
vào chuyện bằng một đoạn thơ:
“Tôi kể người nghe chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Đến nỗi cơ đồ đắm biển sâu*
Đó
là câu chuyện về truyền thuyết xây thành Cổ Loa, chuyện nỏ thần và nhất là bi
kịch tình yêu giữa Trọng Thủy, Mỵ Châu dẫn đến chuyện mất nước Âu Lạc, Vũ Sinh
kể rất say sưa, hấp dẫn. Kết thúc chuyện chàng
nhắc lại lời của Thần Kim Qui nói với An Dương Vương: Giặc ngồi phía sau
nhà vua đó để phê phán Mỵ Châu chính là thủ phạm chính, nàng là người có tội
với đất nước đã đưa đất nước rơi vào cảnh nô lệ gần một ngàn năm. Vũ Sinh chưa
kết thúc câu chuyện thì đột nhiên một cơn lốc mạnh nổi lên, cát bụi bốc lên mù
mịt, lều bạt hàng quán gió vỗ nghe phành phạch, cột kèo kêu răng rắc, trời đang
quang mây tạnh bỗng tối sầm lại, ai nấy đều hoảng hốt sợ hải vội chạy tìm nơi
ẩn nấp hoặc mau chóng thu xếp hàng họ quay trở về nhà. Một lát sau trời trở lại
bình thường như không có chuyện gì xảy ra nhưng chợ đã vãn người đã thưa, đường
phố vắng vẻ, Vũ Sinh đứng ngơ ngác một hồi, buồn bã gói mấy quyển sách cũ vào
trong tay nải lửng thửng bước về nhà. Hoa đào của mấy nhà dân hai bên đường có
những cây đã bắt đầu nở hàm tiếu, màu hồng phơn phớt khoe sắc như báo hiệu một
mùa xuân sắp đến trên đất kinh kỳ.
Đêm
ba mươi năm nay thật buồn. Đã năm năm rời xứ Thanh lên Thăng Long đầy ngựa xe
phồn hoa nầy, Vũ Sinh vẫn tưởng sẽ tìm được con đường sáng để đem tài học của
kẻ sĩ đem thi thố trước thời cuộc đầy biến động nầy. Ngoài bắc, nạn kiêu binh
tác yêu tác quái, Vua Lê Chúa Trịnh ngày đêm tiệc tùng trác táng, sưu thuế nặng
nề. Trong nam, Chúa Nguyễn hùng cứ một phương, phân chia ranh giới. Vũ Sinh
bước ra ngoài hiên cửa nhìn về phương trời xa, bất giác cất giọng u hoài:
Đời
ta đến thế nầy thôi sao?
Sao
lại thế nầy? Công tử có tâm sự ư?
Nghe tiếng người, Vũ Sinh sửng sốt quay người
lại, một người con gái xuất hiện từ lúc nào. Môi hồng, da phấn, nét mặt thanh
tú, mái tóc dài mềm mại xỏa một bên vai, khoác chiếc áo choàng trắng, một người
con gái đẹp nếu không nói là tuyệt thế giai nhân. Dưới ánh sáng chập chờn của
ngọn bạch lạp càng tăng thêm vẻ quyến rũ, ma quái của cô gái, Vũ Sinh cảm thấy
rờn rợn nhưng cố trấn tỉnh hỏi:
Nàng là ai? Từ đâu đến?
Thiếu
nữ nhìn Vũ Sinh mỉm cười:
Là
ai ư? Công tử cần chi biết thân thế thiếp. Thiếp là người từ lâu hâm mộ tài kể
chuyện của công tử nhưng chưa có dịp diện kiến. Sáng nay nghe công tử kể truyền
thuyết Chiếc áo thiên nga nên thiếp đến gặp công tử nhờ giải mối oan tình.
Vũ
Sinh kinh ngạc:
- Chiếc áo thiên nga? Giải mối oan tình? Cơn
lốc sáng nay chẳng lẽ có liên quan đến nàng?
- Phải,
cơn lốc ban sáng do thiếp tạo ra để phản đối cách nhìn nhận vấn đề chưa đúng
của công tử về công chúa Mỵ Châu.Truyền thuyết còn nhiều uẩn khúc mà công tử
chưa biết tường tận đấy thôi.
Trong
thâm tâm họ Vũ có cảm giác hơi khó chịu vì bị chê kiến thức còn khiếm khuyết,
người chê lại là cô gái xinh đẹp, chàng cố dằn lòng:
- Câu
chuyện có nhiều uẩn khúc, xin được lắng nghe nàng giải thích?
Công
tử thật lòng muốn nghe ư?
- Vâng!
Nàng cứ nói.
Giọng
người con gái trở nên xa xăm như muốn đưa Vũ Sinh về thuở hồng hoang của thời
kỳ dựng nước Âu Lạc:
Truyền
thuyết kể rằng sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Tần và thôn tính được nước
Văn Lang, Thục Phán lên ngôi lấy hiệu là An Dương Vương, thành lập nước Âu Lạc.
An Dương Vương là vị vua có tầm nhìn trông rộng thấy kinh đô cũ của nước Văn
Lang không phải là nơi có thể định đô xây dựng đế nghiệp lâu dài, ông cho thầy
địa lý đi khắp cõi Âu Lạc tìm thế đất thịnh vượng để xây dựng kinh đô mới. Các
thầy địa lý tìm kiếm hàng tháng trời về báo lại, có một vùng đất có vị trí đắc
địa có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ
Loa. Khi quyết định dời đô từ Phong Châu về Cổ Loa, đoàn thuyền của vua chứng
kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành
nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện. Trong cuộc giao
tranh, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng
nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Bởi chính An Dương Vương đã dùng bảo
kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó. Thành Cổ
Loa xây nhiều lần vẫn không xong, An Dương Vương khấn thần phật giúp đở, Thần Kim
Quy hiện lên giúp vua tiêu diệt yêu quái thành mới xây xong. Thần còn tặng cho
vua chiếc móng và sợi dây gân của loài giao long sống lâu năm ở biển đông để
làm vũ khí giữ thành.An Dương Vương, sai Cao Lỗ một vị tướng tài tạo thành
chiếc nỏ thần kỳ, dùng móng rùa thần làm lẫy, gân giao long làm dây nỏ. Chiếc
nỏ rất lớn và rất cứng khác xa nỏ thường. Mỗi lần bắn có thể phát ra hàng trăm
mũi tên tiêu diệt rất nhiều quân địch và có thể bắn liên hoàn nên hiệu quả sát
thương rất cao. Để sử dụng tốt chiếc nỏ thần kỳ cần có nhiều tướng sĩ có sức
mạnh phi thường.
Nhờ
chiếc nỏ thần kỳ mà Âu Lạc đã nhiều lần đánh bại cuộc xâm lăng của Triệu Đà
chúa đất Nam Hải. Triệu Đà thấy Âu Lạc sản vật nhiều, phong phú nên tìm mọi
cách để mở mang lãnh thổ, bành trướng thế lực về phương nam. Nhưng Âu Lạc có nỏ
thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên đành rút lui tìm cơ hội khác. Triệu
Đà thấy việc dùng binh không có lợi, bèn xin giảng hòa rồi sai con là Trọng
Thủy làm sứ giả qua cầu thân nhằm tìm cách phá chiếc nỏ thần, vũ khí lợi hại
của dân Âu Lạc.
Trọng
Thủy là người con hiếu thuận nhưng chàng lại không thích chiến tranh, nhiều lần
chàng khuyên cha nên lấy tình hòa hiếu đối với lân bang nhưng Triệu Đà không
nghe. Sợ Trọng Thủy làm hỏng đại sự của mình, Triệu Đà đã cử một gia tướng thân
cận giả làm người hầu cận của Trọng Thủy để nắm lấy nội tình của Âu Lạc mà
chính Trọng Thủy cũng không hề hay biết. Trong những ngày làm sứ giả đi lại kết
tình hòa hiếu,Trọng Thủy gặp được Mỵ Châu, nàng công chúa mắt phượng mày ngài,
nhan sắc tuyệt trần, con gái yêu của An Dương Vương. Trai tài gái sắc gặp nhau,
họ yêu nhau tha thiết đắm say. An Dương Vương thấy đôi trẻ gắn bó với nhau như
hình với bóng, nghĩ việc kết thân sẽ làm tăng thêm mối giao hảo giữa hai nước
giảm đi cái họa ngoại xâm từ nước láng giềng phương bắc nên nhà vua liền gả Mỵ
Châu cho Trọng Thủy. Để làm nguôi ngoai nỗi nhớ quê hương của Trọng Thủy, không
nơi nào trong thành Cổ Loa mà Mỵ Châu không đưa Trọng Thủy đến xem, thưởng
ngoạn, kể cả những nơi bố trí canh phòng cẩn mật. Một lần Trọng Thủy nhớ cuộc
chiến tranh giữa hai nước trước kia bèn hỏi:
- Nàng
ơi! Bên Âu Lạc có bí quyết gì mà chiến thắng ngoại xâm vậy?
Mỵ
Châu vô tình đáp:
-
Nào có bí quyết gì đâu chàng. Âu Lạc có thành cao, hào sâu vững chắc, tướng sĩ
tinh thần chiến đấu dũng mãnh,tinh nhuệ, lại có chiếc nỏ thần kỳ một phát bắn
ra có thể tiêu diệt hàng trăm quân địch thì giặc nào mà không thất bại hở
chàng?
Rồi
Mỵ Châu đưa Trọng Thủy đến nơi cất nỏ thần, giải thích cho chàng biết cách chế tạo,
sử dụng nỏ thần. Tất cả những sự việc đó điều được tên gia tướng đi theo hầu cận
ghi chép đầy đủ, tìm cách đánh trao lẩy nỏ bí mật chuyển về Nam Hải. Nhằm phá
thế phòng ngự của Âu Lạc, Triệu Đà đã gởi sang tặng An Dương Vương một đoàn nữ
nhạc nhan sắc tuyệt trần, ca hay múa giỏi, những loại rượu ngon, đặc sản của
miền Nam Hải để vua quan Âu Lạc chìm đắm trong men say tửu sắc. Quả nhiên An
Dương Vương đã rơi vào bẩy của Triệu Đà. Thấy thời cơ đã đến, Triệu Đà viết thư
triệu hồi Trọng Thủy về nước để chống giặc vì quân Tần phương bắc lại quấy
nhiễu biên cương. Thấy chồng nhận thư có vẻ buồn bã bồn chồn, Mỵ Châu liền hỏi:
- Hình
như chàng có điều gì không vui?
Trọng
Thủy nhìn nàng đáp:
- Phụ
vương triệu hồi ta về nước cầm quân chống giặc Tần xâm lược. Lần nầy về nước,
lại đi phương bắc xa xôi chinh chiến, lành ít dữ nhiều, không biết ngày nào có
thể gặp lại nàng, lòng ta cảm thấy bất an.
-
Chàng đi lần nầy xa xôi nghìn dặm, vì nước lòng em không cản, nhưng biết đến
bao giờ chúng ta được gặp lại nhau?
- Nàng
ơi, nếu chẳng may giặc giả xảy ra, nàng không còn ở chốn nầy, ta biết tìm nàng
phương nào?
- Thiếp
có chiếc áo lông ngỗng trắng, hễ thiếp chạy về phương nào,thiếp sẽ rải lông
ngỗng trên đường đi, chàng theo đó mà tìm thiếp.
Nói
xong Mỵ Châu khóc nức nở.
Trọng Thủy về nước cũng là lúc Triệu Đà phát động chiến tranh với Âu
Lạc.Nỏ thần mất hiệu nghiệm, tinh thần chiến đấu của quân sĩ bạc nhược, những
nơi phòng thủ xung yếu bị chọc thủng nhanh chóng, quân Nam Hải ùa vào thành.
Bấy giờ An Dương Vương mới vội lên ngựa, để Mỵ Châu phía sau ra khỏi cửa thành
chạy về phương nam, trên đường ngựa chạy Mỵ Châu đã rải lông ngỗng theo để
Trọng Thủy theo dấu mà tìm nàng.
Ngựa
chạy liền mấy ngày đêm, đường bôn tẩu càng xa đường núi càng gập ghềnh hiểm
trở, đến chân núi Mộ Dạ thì đường hết, trước mặt là biển cả mênh mông.An Dương
Vương dừng ngựa ngửa mặt lên trời kêu:
- Trời
đã tuyệt đường ta rồi.
Nhà
vua vừa than xong thì một cơn lốc mạnh bốc bụi cát lên cao, biển dậy sóng mù
mịt.Thần Kim Qui hiện lên trong cơn sóng dữ, giọng rền vang:
- Người
tiếp tay với giặc ở sau lưng nhà vua đó.
An Dương Vương chợt hiểu, Mỵ Châu khóc nói với
cha:
- Con
trẻ lòng sáng như nhật nguyệt đâu ngờ âm mưu của kẻ thù gây họa mất nước.Con
xin lấy cái chết để đền tội với non sông.
Nàng nhìn về đường cũ than:
Lông ngỗng bay theo đường bôn
tẩu
Vó ngựa vùi chôn khối u tình
Sóng biển chưa tan hồn huyết lệ
Trách chàng dứt nghĩa dấy đao
binh.
Rồi rút gươm của vua cha tự vẫn chết,máu nàng loang cả một vùng biển.An
Dương Vương ôm xác con khóc, nhà vua hiểu chính mình mới là người tạo nên thảm
họa diệt vong của đất nước, con trẻ nào có tội tình gì. Đau buồn, hối hận nhà
vua định đưa gươm lên kết liễu đời mình, thì Thần Kim Qui cất tiếng:
- Xin người dừng tay, người còn trách nhiệm
với đất nước nầy.Ngày sau ta sẽ giúp người phục quốc, xây dựng lại cơ đồ đã
mất. Long Quân đang chờ đợi người, hãy đi ngay kẻo không kịp.
An Dương
Vương ngậm ngùi nhìn về cố quốc giây lâu rồi bước xuống biển. Lạ thay nhà vua
bước tới đâu thì nước biển dạt ra tới đó, phút chốc nhà vua đã mất hút vào lòng
biển khơi.
Trọng Thủy khi biết được sự tình thì đã muộn. Từ
Phiên Ngung chàng vội vã phi ngựa ngày đêm về Cổ Loa, đến nơi thì thành quách
đã tan tành, khói lửa ngút trời. Theo lời ước hẹn, Trọng Thủy theo đường lông
ngỗng xuôi về phương nam thì không còn kịp nữa. Chàng ôm xác Mỵ Châu khóc than,
lòng đầy hối tiếc. Tham vọng bá quyền của vua cha đã đẩy hai dân tộc vào cuộc
binh đao tàn khốc. Trọng Thủy đưa xác Mỵ Châu lên bè chèo ra biển khơi hường về
hoang đảo, mong tìm một cuộc sống an nhiên giữa cỏ cây hoang dã chỉ có chàng
với những hoài niệm về một mối tình trong sáng, trái ngang bị tham vọng của
người đời vùi dập, chia rẻ.
Vũ
Sinh buột miệng nói:
- Thế
còn truyền thuyết giếng ngọc?
- Do
người đời sau thêm vào để tăng thêm bi kịch cho cuộc tình đầy oan trái của
Trọng Thủy-Mỵ Châu mà thôi.
Vũ
Sinh vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên chàng được nghe kể câu chuyện ly
kỳ có nhiều tình tiết mới mẻ đến thế, chàng thắc mắc hỏi giai nhân:
Nhưng
trong chính sử từ xưa đến nay vẫn chép như thế?
Giai
nhân lắc đầu cười buồn:
- Công
tử đừng nghĩ rằng chính sử bao giờ chép cũng đều đúng cả, cũng như dã sử, ngoại
truyện là do người đời thêu dệt nên, tất cả đều có nguyên nhân của nó.
Vũ
Sinh nhìn giai nhân, lòng đầy nghi hoặc:
-
Vì sao nàng lại biết biết rõ tường tận đến thế? Chuyện nầy xảy ra trên ngàn năm
rồi còn gì? Chẳng lẽ nàng là…
Vũ
Sinh hoảng hốt, ngập ngừng không nói hết câu, người phụ nữ xinh đẹp khoác chiếc
áo choàng trắng đứng trước mặt mình lại là công chúa Mỵ Châu hơn ngàn năm về
trước? Như đoán được tâm trạng của Trần Sinh, giai nhân nhìn chiếc áo mình đang
mặc, khẻ gật đầu nói:
- Công
tử đoán không sai, thiếp chính là Mỵ Châu trong câu chuyện Chiếc áo thiên nga
mà buổi sáng hôm nay công tử kể cho mọi người nghe .Nỗi oan tình suốt cả ngàn
năm của thiếp đã động lòng trời cao, nên thiếp và công tử mới có cơ duyên gặp
mặt.
Vũ
Sinh ngạc nhiên,chưa hiểu:
- Ý
nàng muốn nói là…
- Nhờ
công tử giải oan tình cho thiếp.
- Bằng
cách nào?
- Như
cách công tử từng làm.
- Nghĩa
là...
Vũ
Sinh chợt hiểu, chàng ngập ngừng:
- Ta
e khó lay chuyển tình thế.
- Vì
sao?
- Vì
truyền thuyết đó đã ăn sâu vào tận xương cốt của dân chúng rồi, giờ bắt họ chấp
nhận một thực tế khác thì chẳng khác nào bảo họ phải đạp đổ thành trì tư tưởng
từ lâu hay sao?
Giai
nhân có vẻ trầm ngâm:
- Đó
có lẽ là một điều rất khó đối với công tử.Thiếp chỉ khuyên công tử một điều khi
đã biết tường tận đúng sai một vấn đề thì phải biết thay đổi hành động việc làm,
đừng đem những lời nói sáo rổng mê hoặc lòng người như trước, về sau hối hận
không kịp.
- Thế
nàng bảo ta phải làm thế nào?
- Là
kẻ sĩ đứng trước thời cuộc nghiêng ngửa nầy công tử chưa có dự định gì cho mình
sao?
-
Xin nghe nàng nói.
- Đàng
Trong là nơi đất lành chim đậu, long vân hội tụ, công tử có thể khởi nghiệp cho
mình.
Vũ
Sinh như bừng tỉnh một giấc mộng dài, chấp tay cung kính:
Cám
ơn nàng đã nhắc nhở.
Giai
nhân đừng dậy mắt nhìn ra cửa:
Năm
cũ đã tận, Thời khắc chuyển giao đã tới, Thiếp đi đây.
Vũ
Sinh hoảng hốt nói:
Thế
còn có dịp gặp lại nhau không?
Giai
nhân nhìn chàng mỉm cười:
- Chúng
ta gặp nhau đêm nay đã là cơ duyên rồi.Thiên đình cảm thông nỗi oan tình của
thiếp cả ngàn năm nên cho phép thiếp gặp chàng nhờ chàng giải tỏa những oan ức
mà thiếp phải mang.Nay khối u tình đã dứt thiếp được thiên đình cho phép tái
sinh về phương nam trong gia đình họ Trần. Nếu thật sự có duyên số chúng ta sẽ
gặp lại nhau.
Làm
sao để nhận ra nhau?
Khi
công tử thấy cô gái nào mang áo choàng lông ngỗng là thiếp.
Nói
xong giai nhân bước ra cửa đi thẳng, phút chốc đã biến mất, chỉ còn thoảng lại
mùi hương phảng phất trong phòng.Vũ Sinh bàng hoàng như không tin vào mắt mình.
Đêm trừ tịch năm đó chàng không ngủ được.
Từ
đó người ta không còn thấy chàng thư sinh họ Vũ ra chợ kể chuyện nữa.Có người
nói chàng đã vào núi tu tiên rồi nhưng thật ra Vũ Sinh đã bí mật vượt đèo Ngang
vào tụ nghĩa dưới trướng của Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên.Chàng lấy lại họ Đào
giúp Chúa Nguyễn xây thành đắp lũy, chặn đứng nhiều đợt nam tiến của bắc quân
đàng ngoài lập nhiều chiến công hiển hách, được quan khám lí họ Trần gã con gái
cho.Còn việc chàng có gặp lại giai nhân trong đêm trừ tịch hay không thì không
thấy dị sử chép lại.
Tháng 6/2013
----
* Thơ Tố Hữu
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại- ngày 09/10/2015
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Cần Thơ ngày 13/06/2013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét