Tìm hiểu về ngũ hành tương khắc – Đặng Xuân Xuyến (Hà Nội)
Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2015
Nói đến
Ngũ hành tương khắc là nói đến sự xung khắc giữa các hành với nhau, hay gọi
đúng tên bản chất của sự tương khắc là hành này khống chế và làm cho hành kia
bị suy yếu, hủy diệt.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Đặng Xuân Xuyến
Họ
tên Đặng Xuân Xuyến
Sinh
sống tại Hà Nội,
ĐT:
0903413075
_____
TÌM HIỂU VỀ NGŨ HÀNH
TƯƠNG KHẮC
(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến)
(Trích trong TỬ VI KIẾN GIẢI của Đặng Xuân Xuyến)
Nói
đến Ngũ hành tương khắc là nói đến sự xung khắc giữa các hành với nhau, hay gọi
đúng tên bản chất của sự tương khắc là hành này khống chế và làm cho hành kia
bị suy yếu, hủy diệt.
Nếu
Ngũ hành tương sinh được hiểu là sự nuôi dưỡng, bồi đắp của hành này cho hành
kia phát triển và lớn mạnh, được coi như là tốt giữa 2 hành đó, thì Ngũ hành
tương khắc lại được coi là xấu giữa 2 hành. Ví dụ: Kim khắc Mộc, có nghĩa Kim
khống chế, làm cho Mộc bị suy yếu, hủy diệt; Thủy khắc Hỏa, Thổ khắc Thủy ...
cũng tương tự như vậy.
Vậy
Ngũ hành tương khắc có nghĩa như thế nào? Hiểu đơn giản, có quy luật tương khắc
vì:
1.
Mộc khắc Thổ: Cây cối cắm rễ vào đất, hút chất màu mỡ của đất, làm khô nẻ đất
đá nên mới nói Mộc khắc Thổ.
2.
Thổ khắc Thủy: Đất hút cạn nước, hoặc ngăn chặn dòng chảy của nước nên nói Thổ
khắc Thủy.
3.
Thủy khắc Hỏa: Nước dập tắt lửa hoặc làm suy yếu cường độ của lửa nên mới nói
Thủy khắc Hỏa.
4.
Hỏa khắc Kim: Lửa nóng làm cho kim loại biến dạng, suy yếu, hoặc tan chảy nên
mới nói Hỏa khắc Kim.
5.
Kim khắc Mộc: Kim loại làm đổ cây cối, chế tác cây cối thành vật dụng nên mới
nói Kim khắc Mộc.
Không
giống như Ngũ hành tương sinh, cơ bản như là tốt cho cả 2 hành vì không có sự
khắc, đặc biệt tốt cho hành được sinh (tình trạng sinh nhập) và tốt ít, hoặc
không xấu cho hành bị sinh (tình trạng sinh xuất). Trong mối quan hệ tương khắc
của Ngũ hành thì dù khắc xuất hay khắc nhập đều xấu, sự xấu ít hay xấu nhiều,
phụ thuộc vào hành đó ở trong tình trạng khắc xuất hay bị khắc nhập.
Khắc
xuất hiểu nôm na là mình khống chế được người khác, làm cho người đó bị suy
yếu, hủy diệt. Còn khắc nhập là mình là người yếu thế, bị người khác khống chế,
làm cho mình bị suy sụp, hủy diệt. Dù ở tình trạng khắc xuất thì sự hao tổn,
suy kiệt vẫn sảy ra. Ví dụ, muốn dập tắt được lửa buộc phải tiêu hao lượng nước
nhất định, muốn ngăn được nước buộc phải có lượng đất đủ để đắp đập, ngăn bờ,
thấm hút... Như vậy, dù ở tình trạng khắc xuất hay khắc nhập thì sự suy yếu cho
bản thân vẫn sảy ra, đặc biệt là xấu nhất khi ở tình trạng khắc nhập, vì đó là
tình trạng bị đối phương làm cho suy yếu, rất dễ dẫn đến bị huỷ diệt.
Vì Ngũ hành được biến sinh từ 2 khí Âm - Dương nên khi tìm hiểu về Ngũ hành tương khắc, nguyên tắc chú ý đến tính Âm (-), Dương (+) của Ngũ hành không thể bỏ qua.
Vì Ngũ hành được biến sinh từ 2 khí Âm - Dương nên khi tìm hiểu về Ngũ hành tương khắc, nguyên tắc chú ý đến tính Âm (-), Dương (+) của Ngũ hành không thể bỏ qua.
Chúng
ta đều biết, hai hành có cùng Âm (-) hoặc cùng Dương (+) thì sẽ không sinh cũng
như không khắc vì hai hành này có tính đối kháng, sẽ đẩy nhau ra xa, mỗi hành
lại ở một vị trí nên không thể có chuyện sinh, khắc.
Ví
vụ:
Dương
Thổ không sinh Dương Mộc
Âm
Kim không khắc Âm Mộc
Mối
tương quan sinh - khắc của Ngũ hành được hiểu như vậy nên trong khoa Tử vi mới
có sự lưu ý đặc biệt:
4
cung Thìn - Tuất - Sửu - Mùi đều thuộc Thổ và chia ra 2 cặp cùng khí Dương (+)
là Thìn - Tuất và cùng khí Âm (-) là Sửu - Mùi. Nên sẽ không có sự đối kháng
giữa Thìn và Tuất, Sửu và Mùi như các cặp còn lại như: Tý - Ngọ, Mão - Dậu, Tỵ
- Hợi, Dần - Thân.
Tại
sao vậy? Vì Thìn - Tuất đều là Dương Thổ, Sửu - Mùi đều là Âm Thổ nên không có
sự đối kháng. Nhưng các cặp còn lại Tý (Dương Thủy) - Ngọ (Dương Hỏa), Mão (Âm
Mộc) - Dậu (Âm Kim), Tỵ (Âm Hỏa) - Hợi (Âm Thủy) và Dần (Dương Mộc) - Thân
(Dương Kim). Tuy các cặp này đều cùng thể chất khí (cùng Âm hoặc cùng Dương)
nhưng đặc tính của hành lại khắc nhau nên mới có sự đối kháng (Thủy ><
Hỏa, Kim >< Mộc) như vậy.
Trong
mối quan hệ vợ chồng, nếu tuổi vợ và chồng ở thế tương khắc thì trường hợp tuổi
chồng khắc tuổi vợ còn khả dĩ chấp nhận phần nào, nhưng nếu tuổi vợ lại khắc
tuổi chồng (ví dụ tuổi vợ là Bính Thìn khắc tuổi chồng là Bính Ngọ) thì quả
thật trường hợp này đúng là “nghi bại nghi vong” - Người vợ sẽ đem lại những
bất hạnh, đắng cay cho người chồng. Đây là điều tối kỵ trong việc kết duyên đôi
lứa theo thuyết Âm Dương Ngũ hành.
Nghiên
cứu về sự tương khắc của Ngũ hành, thì nguyên tắc căn cứ vào Ngũ hành của nạp
âm thủ tựơng nhất quyết phải được chú trọng. Đây là yếu tố quan trọng để lý
giải tại sao tương sinh mà lại không tương sinh, tương khắc mà thực chất lại
không tương khắc.
Chẳng
hạn, tuổi Bính Ngọ và Bính Thìn
Xét
về đặc tính của Ngũ hành thì tuổi Bính Ngọ có bản mệnh là Thủy, còn tuổi Bính
Thìn có bản mệnh là Thổ, sẽ xung khắc vì: Thổ làm cho Thủy (Thổ khắc Thủy) bị
hao kiệt, suy yếu, thậm chí bị hủy diệt. Xét đến âm dương của ngũ hành thì Bính
Thìn là dương Thổ, Bính Ngọ là dương Thủy, thì hai tuổi này cũng sẽ không có sự
tương khắc mà chỉ đối kháng nhau, đẩy nhau ra xa và không thể có sự hủy diệt
nhau vì đều là Dương (+), nhưng nếu xét về bản chất lý tính (nạp âm Ngũ hành)
thì Sa Trung Thổ (đất bồi bờ biển, còn gọi đất trong cát) không thể làm hại
được Thiên Hà Thủy (nước sông trên trời, còn gọi nước trời mưa) vì các loại Thổ
(đất) không thể hút được nước trên trời, ngược lại còn bị nước sông trời (nếu
nhiều) sẽ
làm cho tan rã, hư hại.
làm cho tan rã, hư hại.
Như
vậy, tuổi Bính Thìn và Bính Ngọ về cơ bản không có sự xung khắc gay gắt, không
dẫn đến cảnh “hủy diệt” lẫn nhau, nhưng vì đều là khí dương (+) nên sẽ không
hợp nhau, không làm tốt cho nhau mà luôn đẩy nhau ra xa, cản trở nhau trong mọi
công việc.
Lưu
ý: Đây là xét về Âm Dương Ngũ hành thì là vậy nhưng không thể cứ là nữ Mệnh
Bính Thìn (Thổ) và nam Mệnh Bính Ngọ (Thủy) sẽ đều như vậy. Sự gia giảm về hệ
quả của sự kết hợp vợ chồng phần lớn phụ thuộc vào lá số của mỗi người trong
mỗi cặp vợ chồng, vì thế mới có sự khác biệt khi so sánh hạnh phúc giữa các cặp
vợ chồng có bản Mệnh giống nhau. Tuy nhiên, tất cả các cặp vợ chồng trong
trường hợp này đều gặp trục trặc, không ít thì nhiều trong cuộc sống lứa đôi,
chứ không thể thuận hòa như những cặp vợ chồng các tuổi khác được.
Hay
như tuổi Nhâm Tuất, Quý Hợi có bản mệnh là Đại Hải Thủy (nước biển rộng mênh
mông), đặt cạnh Thiên Thượng Hỏa (nạp âm thủ tượng của tuổi Mậu Ngọ, Kỷ Mùi)
thì lại tốt bởi Đại Hải Thủy dung nạp tất cả nước sông ngòi đổ xuống nên rất
cần có Thiên Thượng Hỏa chiếu xuống làm thành cách thủy bổ dương quang. Như
vậy, trong trường hợp này tưởng như khắc mà lại không xung khắc.
Luận
bàn về Ngũ hành tương khắc, cổ nhân có 3 cách như sau:
Cách
1: Lấy đặc tính Ngũ hành và Âm Dương Ngũ hành làm căn bản.
Cách
2: Lấy lý tính của Ngũ hành làm căn bản (nạp âm Ngũ hành).
Cách
3: Kết hợp cả 2 cách trên.
Theo
kinh nghiệm, chúng tôi chọn cách 3 làm cơ sở cho việc luận giải. Thực tế, sự
tương sinh - tương khắc - tương hòa của Ngũ hành không đơn giản. Để lý giải
được mối quan hệ tương sinh - tương khắc - tương hòa nào đó, nếu chỉ lấy đặc
tính của Ngũ hành và Âm - Dương Ngũ hành làm căn bản sẽ dễ dẫn đến kết luận
phiếm diện. Nếu chỉ lấy lý tính của Ngũ hành làm căn bản sẽ có nhiều trường hợp
người đoán giải đành chịu bó tay. Vì vậy, khi xét về Âm Dương Ngũ hành bạn đọc
nên lưu ý nguyên tắc:
-
Lấy đặc tính của Ngũ hành làm căn bản.
-
Lấy Âm Dương Ngũ hành làm căn bản.
-
Lấy lý tính của nạp âm Ngũ hành làm căn bản.
Cần
lưu ý, khi luận giải về tương sinh - tương khắc - tương hòa hoặc quy luật chế
hóa của Ngũ hành, người đoán giải phải phải linh hoạt, không được tuân thủ một
cách máy móc, tùy theo từng trường hợp, mà có sự linh hoạt, không vì quá coi
trọng một yếu tố nào mà đưa ra lời kết luận phiến diện, dẫn đến lời luận giải
thiếu chính xác, thậm chí còn bế tắc.
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 12.9.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét