Tản mạn về thơ Đường – Thái Quốc Mưu (Atlanta USA)
Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2015
Thơ Đường là loại thơ – có thể gọi là thơ
cao cấp trong các thể thơ – Vì, luật lệ khe khắc phải gắn bó với niêm luật, đối
họa nghiêm chỉnh, trạng luận phân minh.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Thái Quốc Mưu
Còn
có bút danh Liêu Tiên Sinh
Ngày
Tháng Năm sinh: 11/2/1941
Quê
quán Thị xã Mỹ Tho (TP.Mỹ Tho - Tỉnh Tiền Giang)
Định
cư tại Mỹ ngày 22-2-1992
Hiện
đang sống và làm việc tại Atlanta USA
Email: danviet1995@aol.com
_____
TẢN MẠN
VỀ THƠ ĐƯỜNG
Thơ
Đường là loại thơ – có thể gọi là thơ cao cấp trong các thể thơ – Vì, luật lệ
khe khắc phải gắn bó với niêm luật, đối họa nghiêm chỉnh, trạng luận phân minh.
Nói
vậy không có nghĩa tôi có ý chê các thể thơ khác là “thơ hạ cấp”. Mục đích bài
viết chỉ để nói về luật thơ Đường nghiêm khắc hơn tất cả luật các thể loại thơ
khác. Còn, thơ hay hoặc chưa hay là vấn đề khác. Bất cứ loại thơ nào cũng có
hay, chưa hay và dở.
Một
bài thơ Đường hay phải có ẩn dụ, đọc như vậy chứ ý không phải vậy, nói một đàng
hiểu một nẻo,… phải có nhạc tính cao, đọc lên nghe êm như lời ru của mẹ, giọng
nói của bạn tình.
Các
câu 3 + 4 (gọi là trạng) và 5 + 6 (gọi là luận) phải phân minh. Xướng đối phải
rõ ràng. Năm vần (các câu 1, 2, 4, 6, 8) phải đồng âm. Ngoài ra phải đúng luật
BẰNG, TRẮC ( Bằng = B – Trắc = T), luật nầy có thể được miễn trừ ở các chữ
trong câu, là: Nhất, tam, ngũ (1 – 3 – 5) bất luận (không buộc theo đúng luật
Bằng, Trắc); Nhì, tứ, lục (2 – 4 – 6) phân minh (bắt buộc phải đúng luật Bằng,
Trắc).
Thơ
Luật Thất Ngôn Bát Cú:
T
– T – B – B – T – T – B (vần)
B
– B – T – T – T – B – B (vần)
B
– B – T – T – B – B – T
T
– T – B – B – T – T – B (vần)
T
– T – B – B – B – T – T
B
– B – T – T – T – B – B (vần)
B
– B – T – T – B – B – T
T
– T – B – B – T – T – B (vần)
Các
câu trong bài thơ luật Đường được gọi như sau:
-
Câu 1. Phá đề
-
Câu 2: Thừa đề
-
Hai câu 3 + 4 cặp trạng, phải đối nhau.
-
Hai câu 5 + 6, cặp luận, phải đối nhau.
-
Câu 7: Kết
-
Câu 8: Thúc.
Đặc
biệt, xin lập lại, hai cặp 3 + 4 và 5 + 6 tứ thơ phải phân minh, nghĩa là ý thơ
hai câu 5 + 6 không được trùng lập với tứ thơ hai câu 3 + 4.
Thơ
Thất Ngôn Bát Cú, được gọi Thơ Đường, vì thể thơ nầy phát triển rất nhanh vào
thời Nhà Đường (từ 18 tháng 6, 618 đến 1 tháng 6, 907) của nước Trung Hoa (nay
là Trung Quốc).
Người
ta thường gọi thơ Thất Ngôn Bát Cú là Thơ Đường, có thể không chính xác, nên
chăng gọi là Thơ Luật Đường, có lẽ đúng hơn. Bởi, Thơ Đường là thơ của thời Nhà
Đường, còn các thế hệ làm thơ Tám Câu Bảy Chữ, sau Nhà Đường là làm thơ theo
luật thơ của Nhà Đường.
Thất
ngôn bát cú, thực tế được cải tiến từ thơ Cổ Phong 7 chữ tám câu. Thể thơ nầy
không cần niêm luật và có thể có nhiều vần trong một bài thơ.
Triều
đại Nhà Đường có ba, bốn trăm Nhà thơ vào hàng cự phách và để lại đời sau mấy
chục ngàn bài thơ bất hủ. Trong đó, có năm, sáu vị mà hầu như chúng ta ít nhiều
biết đến: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu, Thôi Hộ và Vương Bột...
Trong
những vị ấy, Lý Bạch là người nổi tiếng hơn cả, có lẽ do thơ ông gần gũi quần
chúng, và, “cái ngông” của ông trong huyền thoại, say, xỉn xuống sông mò trăng
(?).
Để
thơ đến với mọi người, thơ ca phải giản dị, gắn bó với nỗi lòng của mọi tầng
lớp quần chúng bằng tính nhân bản. Lý Bạch cùng nhóm bạn Trương Tịch, Vương
Kiến,… chủ trương thơ phải phản ảnh thực trạng xã hội, trong đó yếu tố đời sống
người dân là trọng tâm. Ông nói: “Làm thơ phải nhìn vào hoàn cảnh mà nói lên
được khát vọng của đại đa số quần chúng, chứ không nên chỉ trong mộng mơ hư
ảo”.
Còn
Vương Bột có lẽ là Nhà thơ có nhiều tác phẩm hơn các vị kia: Hán Thư Chỉ Hà (10
quyển), Chu Dịch Phát Huy (5 quyển), Thứ Luận Ngữ (10 quyển), Chu Trung Toản Tự
(5 quyển) và Thiên Tuế Lịch, nhưng tên tuổi ông ít được quần chúng biết đến.
Thơ
Luật Đường là thể thơ có nhiều xướng họa hơn các thể loại thơ khác.
Chơi
thơ (bất cứ thể loại nào) là một nghệ thuật, đòi hỏi có nhiều năng khiếu về
thơ. Đặc biệt thơ luật Đường cần phải có vốn kiến thức, thông suốt ngữ phạm và,
tất nhiên thông thạo luật thơ.
Một
bài thơ hay, chẳng phải do có nhiều sáo ngữ hoặc nhiều “từ mới”. Không ít Nhà
thơ khi sáng tác thơ cố vắt óc nặn chữ cho có vẻ cao siêu, kết quả là người đọc
không hiểu tác giả viết gì? Muốn gởi gắm cái gì đến mình.
Đó
là căn bệnh trầm kha của những “Người thơ” cố ghép chữ thành vần điệu. Và, để
biện minh cho trò ghép chữ của mình họ tự sáng chế ba từ “Tân Hình Thức”.
Bài
thơ hay, ngoài đúng niêm luật, giàu nhạc tính còn gởi ý thơ, hồn thơ đến mọi
người. Để khi đọc họ cảm thấy rung động trong lòng; cảm nhận được tứ thơ và
lắng sâu vào hồn… Ngoài ra, thơ cần có sự sáng tạo về ngôn ngữ nhưng phải phù
hợp ý thơ, bất ngờ, nhưng không khách sáo, viển vông.
Người
làm thơ cần tự tạo cho mình một hướng thơ (tức là đường thơ, là phát kiến
riêng); phải tự tạo ra ánh hào quang đặc biệt cho riêng mình, không nên đi theo
lối mòn do các nhà thơ khác đã khai phá.
Khi
nghe ai đọc một bài thơ mà ta đoán được bài thơ đó của tác giả nào thì nhà thơ
ấy đã thành công.
Ngược
lại, khi nghe hay đọc một bài thơ mà ta cảm nhận âm hưởng, cấu trúc ngôn ngữ
của bài thơ đó na ná với dòng thơ, cấu trúc ngôn ngữ của một tác giả khác thì
kẻ viết bài thơ ấy chưa đạt được chánh danh Nhà thơ.
Cuối
cùng, người viết xin mượn ý của thi hào Lý Bạch kết thúc bài nầy: “Viết văn,
làm thơ để tạo thành một ấn phẩm thì không chỉ viết cho riêng mình, mà cho tất
cả mọi người đọc”.
Atlanta, Nov. 04, 2013
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ USA ngày 03.7.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét