Home
» Lý luận phê bình
» Ông Đồ: Những bức tranh thơ – Bài viết Phạm Đức Nhì (Galveston, Texas USA)
Ông Đồ: Những bức tranh thơ – Bài viết Phạm Đức Nhì (Galveston, Texas USA)
Thứ Năm, 4 tháng 6, 2015
Bài thơ Ông Đồ được đăng năm 1936 trên báo Tinh Hoa lúc tác giả của nó, Vũ Đình Liên, mới 23 tuổi. Ông là người theo tân học, đậu Tú Tài năm 1932 (lúc 19 tuổi). Nhờ khả năng quan sát sắc bén ông đã sáng tác được bài thơ mà theo Hoài Thanh: “Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ lưu danh với đời.” (Thi Nhân Việt Nam).
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Phạm Đức Nhì
Quê quán: Việt Nam
Hiện định cư tại Galveston, Texas
Quê quán: Việt Nam
Hiện định cư tại Galveston, Texas
Email: nhidpham@gmail.com
_____
_____
ÔNG ĐỒ: NHỮNG BỨC TRANH THƠ
Bài
thơ Ông Đồ được đăng năm 1936 trên báo Tinh Hoa lúc tác giả của nó, Vũ Đình
Liên, mới 23 tuổi. Ông là người theo tân học, đậu Tú Tài năm 1932 (lúc 19
tuổi). Nhờ khả năng quan sát sắc bén ông đã sáng tác được bài thơ mà theo Hoài
Thanh: “Theo đuổi nghề văn mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ. Nghĩa là đủ
lưu danh với đời.” (Thi Nhân Việt Nam).
Hoài
Thanh đưa ra những lời khen ngợi trên và đã chọn đưa vào tuyển tập Thi Nhân
Việt Nam chứng tỏ bài thơ Ông Đồ của Vũ Đình Liên, dưới cái nhìn của đôi mắt
thơ có nội lực sung mãn vào hạng nhất thời bấy giờ, được đánh giá rất cao.
ÔNG ĐỒ
Mỗi năm hoa đào nở
Lại
thấy ông đồ già
Bày
mực tàu, giấy đỏ
Bên
phố đông người qua
Bao
nhiêu người thuê viết
Tấm
tắc ngợi khen tài
Hoa
tay thảo những nét
Như
phượng múa rồng bay
Nhưng
mỗi năm mỗi vắng
Người
thuê viết nay đâu?
Giấy
đỏ buồn không thắm
Mực
đọng trong nghiên sầu
Ông
đồ vẫn ngồi đấy
Qua
đường không ai hay
Lá
vàng rơi trên giấy
Ngoài
trời mưa bụi bay
Năm
nay đào lại nở
Không
thấy ông đồ xưa
Những
người muôn năm cũ
Hồn
ở đâu bây giờ?
Vũ Đình Liên
Tứ
thơ:
Mỗi độ xuân về ông Đồ
lại ngồi bên phố trổ tài viết câu đối cho người qua, kẻ lại. Nhưng mỗi năm mỗi
ít người thuê viết, ông đồ ngồi lặng lẽ bên đường. Và năm nay không thấy ông đồ
nữa.
Ý
thơ:
Qua
hình ảnh ông đồ tác giả tỏ ý thương tiếc một nền Nho học đang lụi tàn dần theo
năm tháng.
Ở đây ý và tứ khác
nhau, nghĩa là tác giả đã sử dụng phép ẩn dụ toàn bài. Ông không chơi bài cào,
kiểu ngửa mặt lớn nút ăn tiền, mà chọn ván bài xì phé trong đó con tẩy được dấu
kín. Con tẩy càng kín thì ván bài càng hấp dẫn và tay chơi (tác giả) càng có
lợi thế. Đến phút cuối cùng, con tẩy được lật lên, người đọc à lên một tiếng
thích thú. Từ lúc hiểu tứ đến lúc cảm thông được ý - chủ đích của tác giả khi
viết bài thơ - chỉ một tích tắc. Điều đáng nói là chính cái tích tắc ngắn ngủi
đó đã cho người đọc cái cảm giác sảng khoái như khám phá được một điều gì to
lớn lắm.
Đọc
xong đoạn cuối:
Năm nay đào lại nở
Không
thấy ông Đồ xưa
Những
người muôn năm cũ
Hồn
ở đâu bây giờ?
qua
dòng liên tưởng của chính mình người đọc thấy con bài tẩy đã được ngửa ra. Sự
mất dạng của Ông Đồ giữa phố Tết dẫn đến tâm trạng nuối tiếc một nền Nho học
đang lụi tàn. Đây là một tứ thơ hay, bao quát toàn bài, được vận dụng khéo léo,
kín kẽ, không một tý sơ hở để có thể dẫn đến những hiệu ứng phụ khiến người đọc
có thể vặn vẹo, bắt bẻ.
Ngoài
phép ẩn dụ, bài thơ Ông Đồ còn có những cái hay sau đây:
Không
có hội chứng nhàm chán vần
Một
trong những hạn chế của thể thơ trường thiên (ở đây là ngũ ngôn trường thiên)
là hội chứng nhàm chán vần. Mỗi câu vừa vặn 5 chữ, vần gieo 1/3 (trắc), 2/4
(bằng) rất đều đặn từ đầu đến cuối khiến người đọc có cảm giác “ngán vần” nếu
bài thơ quá dài. May mắn, bài thơ chỉ có 20 câu; tuy vị ngọt thơ ca hơi “đậm
đà” nhưng cảm giác nhàm chán chưa kịp đến thì bài thơ đã hết.
Tứ
thơ không bị phân tán
Hạn
chế thứ hai của thể thơ trường thiên là tứ thơ phân tán. Bài thơ chia làm nhiều
đoạn, mỗi đoạn 4 câu độc lập, không có mắt xích nối các đoạn với nhau nên không
có dòng chảy của thơ. Thay vào đó chỉ có những vũng thơ, những hố thơ riêng
biệt; mỗi vũng, mỗi hố thể hiện một mảnh tâm trạng của tác giả. Người đọc phải
đến từng hố thơ để cảm nhận từng mảnh vụn tâm tình đó. Tứ thơ vì thế bị phân
tán. Bài thơ Ta Về của Tô Thùy Yên đã vướng phải hạn chế này. Ông viết:
Ta
về như tứ thơ xiêu tán là rất đúng. Bởi bài Ta Về có đến 124 câu, 31 đoạn; tứ
thơ chủ đạo hoàn toàn bị phân tán, manh mún.
Bài
thơ Ông Đồ về hình thức không có những mắt xích nối
các đoạn thơ với nhau nhưng may mắn (lại may mắn),
không kể đoạn đầu giới thiệu ông Đồ, 4 đoạn còn lại là chuỗi hình ảnh nối tiếp
nhau theo thứ tự thời gian nên người đọc vẫn có được sự chú tâm cần thiết thả
hồn theo dòng thơ – chính là dòng thời gian – để cảm được tâm tình
của tác giả.
Áp
dụng thành công nguyên tắc “bày tỏ, không kể lại” (show, not tell): tác giả
dùng ngôn từ đơn giản của đời thường, tạo ra những hình ảnh gần gũi, quen thuộc
để người đọc có thể cảm nhận trực tiếp, không qua sự biện giải dài dòng của lý
trí.
Cái
hay nữa của bài thơ là “thi hóa than thành họa”; họa ở đây không phải chỉ khi
ẩn, khi hiện mà mỗi đoạn thơ đã được tác giả vẽ thành một bức tranh sống động.
Mỗi năm hoa đào nở
Lại
thấy ông đồ già
Bày
mực tàu, giấy đỏ
Bên
phố đông người qua
1/
Bức tranh nhìn từ xa: đám đông vây quanh một ông già mặc áo
chùng thâm, đội khăn đóng (ông Đồ) đang lúi húi viết; mặt ông Đồ và những người
vây quanh đều lờ mờ, không rõ nét. Đây đó một vài cây đào đang nở hoa, báo hiệu
xuân sang, tết đến.
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm
tắc ngợi khen tài
Hoa
tay thảo những nét
Như
phượng múa rồng bay
2/
Bức tranh cận cảnh: cũng đám đông vây quanh ông Đồ, mặt tươi vui, chú tâm theo
dõi nét bút (lông) của ông trên giấy đỏ.
Thân hình và mặt mọi
người đều rõ nét.
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người
thuê viết nay đâu?
Giấy
đỏ buồn không thắm
Mực
đọng trong nghiên sầu
3/
Bức tranh nhìn hơi xa: ông Đồ ngồi trên chiếu, bên cạnh là xấp giấy màu đỏ
(nhạt hơn màu giấy ở bức tranh 2), bút lông và lọ mực chỉ còn một ít mực đọng ở
cuối lọ. Chỉ có 1, 2 người thờ ơ đứng xem, không ai thuê viết.
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua
đường không ai hay
Lá
vàng rơi trên giấy
Ngoài
trời mưa bụi bay
4/
Bức tranh nhìn gần hơn một tý: ông Đồ vẫn ngồi trên chiếu dưới mưa phùn lất
phất, bên cạnh lờ mờ xấp giấy đỏ, bó bút lông và lọ mực. Người đi đường qua lại
không ai đến gần chiếc chiếu của ông Đồ. Cảnh thật tiêu điều.
Năm nay đào lại nở
Không
thấy ông đồ xưa
“Những
người muôn năm cũ
Hồn
ở đâu bây giờ?”
5/
Bức tranh cận cảnh: người đi chơi xuân qua lại tấp nập trên đường; khoảnh đất
ngày xưa ông Đồ thường ngồi, nay bỏ trống; một người không rõ mặt (tác giả)
đứng cách mươi bước, mắt đăm chiêu nhìn khoảnh đất trống. Thật ra, nếu vẽ đúng
ý của đoạn kết thì phải có thêm dấu chấm hỏi ngay trên khoảnh đất trống ấy.
Sau
đây là vài khuyết điểm nho nhỏ trong bài thơ Ông Đồ mà người viết bài này muốn
đưa ra để bàn luận:
Cách
gieo vần: phải nhìn nhận tác giả rất cố gắng và rất khéo trong việc chọn chữ và
gieo vần để giảm bớt vị ngọt của thơ ca. Trong 10 đôi chữ vần với nhau chỉ có 3
đôi là chính vận (đâu sầu, đấy giấy, hay bay), 7 đôi còn lại là thông vận. Tuy
vậy vị ngọt, mặc dầu chưa đến độ nhàm chán, đối với người đọc khó tính, đã hơi
“đậm đà”. Tại sao ông không bỏ hẳn vần 1/3, chỉ giữ vần 2/4 như Ta Về của Tô
Thùy Yên chẳng hạn? Hỏi tức là đã trả lời. Lúc ấy cách gieo vần của Thơ Mới
(ảnh hưởng Pháp) là như thế. Một nhà thơ cự phách như Tô Thùy Yên mà đến gần 50
năm sau (1985), trong Ta Về mới áp dụng phép gieo vần ấy, thì làm sao có thể
trách Vũ Đình Liên được. Ông đã chọn thể thơ mà ở thời của ông được coi là mới
nhất, phóng khoáng nhất. Nhưng dẫu sao cái vị ngọt hơi “đậm đà” đã tan vào bài
thơ của ông, và ông, chứ không ai khác, phải nhận trách nhiệm (một
cách oan ức!) về khuyết điểm nho nhỏ đó.
Theo
tôi, 2 câu đóng góp ít nhất và giảm giá trị nghệ thuật của bài thơ nhiều nhất,
là 2 câu cuối:
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
Nhận
định này rất khác với những bài bình Ông Đồ trên sách báo và internet ở trong
nước; nó cũng khác với nhận định của vài nhà phê bình văn học ở hải ngoại. Sau
đây là lý do khiến tôi đưa ra nhận định ấy.
Khi
đọc xong câu 18:
Không
thấy ông Đồ xưa
con
tẩy của ván xì phé đã được lật lên, ẩn dụ đã được giải mã, không cần phải giải
thích thêm nữa. Bằng khả năng liên tưởng của mình người đọc đã có thể nhận ra
chủ ý của tác giả: nền Nho học đang lụi tàn. Cái câu hỏi “Những người muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ?” là không cần thiết, là
thừa. Nếu nói tác giả dùng cái câu hỏi “hỏi để mà hỏi vậy thôi” với mục đích
là, qua cái giọng “bàng hoàng, thảng thốt” trong câu hỏi ấy, truyền cho người
đọc cảm giác tiếc nuối cái nền Nho học kia, thì cũng không hợp tình
lắm. “Bàng hoàng, thảng thốt” dùng cho trường hợp của Tú Xương trong Sông Lấp
thì đúng, bởi ông Tú cũng chính là ông Đồ, là máu, là thịt của nền Nho học; mất
(hình ảnh) ông Đồ, đối với ông, cũng đau đớn như mất một phần thân thể, một
phần tâm hồn của mình. Còn như Vũ Đình Liên, theo tôi, chỉ bâng khuâng tiếc
nuối khi thấy mất đi một nét đẹp văn hóa của dân tộc, bởi ông – một người theo
tân học – đối với ông Đồ, đối với nền Nho học, chỉ là kẻ bàng quan, là người
ngoài cuộc; câu hỏi với cái giọng tha thiết ấy có vẻ hơi “lạc điệu”. Hơn thế
nữa, nó làm bức tranh thứ 5 vẫn cồm cộm chữ nghĩa; ngôn ngữ chưa hoàn toàn tan
biến, chưa thực sự hóa thân vào trong tranh.
Có lần cô cháu dâu người miền nam nấu đãi
ông bác chồng mới ở Mỹ về thăm, một nồi chè xôi nước. Con nhỏ nấu ngon thiệt;
tôi ăn một lúc hết 4 viên mà vẫn còn thòm thèm. Nhưng đến viên thứ năm thì kẽ
răng tôi bị một miếng gì đó dính vào. Thì ra nó nấu chè bằng đường chén làm từ
mía; người làm đường không để ý nên sót lại chút bã mía trong chén đường. Dù
vậy, chè xôi nước hôm đó vẫn là bữa ăn rất ngon tôi còn nhớ đến ngày hôm nay.
Vâng!
Hai câu kết của bài thơ chính là miếng bã mía trong nồi chè xôi nước. Người đọc
có cảm giác hơi tiêng tiếc. Chỉ một chút xíu nữa thôi là những bức tranh thơ có
thể hoà nhập trọn vẹn vào tâm hồn người đọc, bài thơ có thể gọi là toàn bích.
Tóm
lại, nhờ sự nhạy bén của tác giả (và một chút may mắn) bài thơ Ông Đồ đã tránh
được hai khuyết điểm lớn của thể thơ trường thiên: hội chứng nhàm chán vần và
tứ thơ phân tán. Thêm vào đó, nó lại có thể thủ đắc một lúc 3 “tuyệt chiêu” của
thơ ca là ẩn dụ tài tình, bày tỏ, không biện giải (show, not tell), và thi hóa
than thành họa. Tôi xin mạnh dạn gọi nó là một tuyệt tác.
Nó
không phải chỉ nổi bật khi so sánh với những bài thơ cùng thời, không phải chỉ
nhận được những lời ngợi khen từ những nhà phê bình văn học sử
dụng cái thước đo giá trị thơ ca của bối cảnh văn học những năm
1930s, 1940s. Ngay lúc tôi viết bài này (2013), sau gần 80 năm lăn lóc trên thi
đàn, nó vẫn sống trong lòng người yêu thơ. Những nhà phê bình văn học, dù khó
tính, “bới lông tìm vết” bằng những chuẩn mực giá trị của thời đại mới đi nữa,
vẫn phải công nhận Ông Đồ là bài thơ rất hay.
Ông Đồ không chỉ là
hiện tượng, là cái mốc của một thời điểm lịch sử như Tình Già của Phan Khôi,
như mấy bài thơ của TTKh, mà bằng giá trị nghệ thuật nội tại, bằng cái đẹp chân
chất thơ ca, đã biểu lộ một sức sống mãnh liệt, sẽ còn ngất ngưởng trên thi
đàn, làm xao xuyến hàng triệu trái tim những người yêu thơ …nhiều chục năm nữa.
Galveston, Texas 2013
----
Tham
Khảo:
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Galveston, Texas USA ngày 04.6.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét