Home
» Giới thiệu sách
» Góc thư giãn
» Đôi điều về 12 cung vô chính diệu (trích trong cuốn TỬ VI VẤN ĐÁP) – Tác giả Đặng Xuân Xuyến
Đôi điều về 12 cung vô chính diệu (trích trong cuốn TỬ VI VẤN ĐÁP) – Tác giả Đặng Xuân Xuyến
Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015
Bàn về cung vô chính diệu, sách TỬ VI CHÂN TRUYỀN viết: “Đối với trường hợp Mệnh vô chính diệu hoặc cung vô chính diệu nói chung đều lấy chính tinh ở cung xung chiếu làm căn bản để luận đóan cho đến khi bước vào đại vận có chính tinh thì lại lấy chính tinh của đại vận để luận đoán (không sử dụng được chính tinh ở các cung tam hợp vì không nằm trong trục đối xứng xung khắc về Ngũ hành nên tính chất không đủ mạnh).
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Đặng Xuân Xuyến
Họ
tên Đặng Xuân Xuyến
Sinh
sống tại Hà Nội,
ĐT:
0903413075
_____
ĐÔI ĐIỀU VỀ 12 CUNG
VÔ CHÍNH DIỆU
(trích trong cuốn TỬ VI VẤN ĐÁP - Đặng
Xuân Xuyến; NXB Thanh Hóa 2009)
Bàn về cung vô chính diệu, sách TỬ VI CHÂN TRUYỀN viết: “Đối với trường hợp Mệnh vô chính diệu hoặc cung vô chính diệu nói chung đều lấy chính tinh ở cung xung chiếu làm căn bản để luận đóan cho đến khi bước vào đại vận có chính tinh thì lại lấy chính tinh của đại vận để luận đoán (không sử dụng được chính tinh ở các cung tam hợp vì không nằm trong trục đối xứng xung khắc về Ngũ hành nên tính chất không đủ mạnh). Nếu không thể lấy chính tinh cung xung chiếu thì bắt buộc phải xem mệnh nằm trong trạng thái nào của vòng Trường sinh để luận đoán sự thọ yểu của Mệnh có kéo dài được đến đại vận tiếp theo hay không và sử dụng sao đó để luận đoán về hình thức cơ bản của Mệnh. Cung vô chính diệu giống như một hố đen của vũ trụ câu hút được năng lượng từ các cung xung chiếu và tam hợp cho dù các cung đó có Tuần - Triệt hay không. Như một tổ chức chưa được định hình, một đội quân chưa có người lãnh đạo vì vậy tính chất của các phụ tinh thể hiện một cách tự do không có định hướng, khi gặp vận có chính tinh hoặc cung xung chiếu có chính tinh thì đó chính là sự định hướng sự phát triển cho cung đó.
Trường
hợp cung vô chính diệu có Tuần - Triệt thì cũng không sử dụng được các sao xung
chiếu cũng như tam hợp như khi cung Vô chính diệu không có Tuần - Triệt mà phải
căn cứ vào trạng thái vượng suy của cung theo vòng Trường sinh và chỉ sử dụng
các sao tại bản cung để xét đoán cho đến khi nhập vận có chính tinh.
Trường
hợp Mệnh hoặc Cung vô chính diệu có Tuần (Triệt) và cung đối xứng có Triệt
(Tuần) thì khi đại vận chưa nhập vào cung Vô chính diệu thì vẫn chỉ sử dụng các
sao tại bản cung để luận cho đến khi vận nhập vào cung Vô chính diệu thì cách
luận như đối với trường hợp Tuần - Triệt tháo gỡ nhau.”
Nhưng như thế thì khái quát quá và sẽ khó
khăn cho người mới làm quen với khoa Tử Vi. Vì thế, người viết đã soạn ĐÔI ĐIỀU
BÀN VỀ 12 CUNG VÔ CHÍNH DIỆU để cụ thể hơn, đơn giản hơn cho việc tự học và ứng
dụng kiến thức khoa Tử Vi vào cuộc sống với người chập chững làm quen với môn
khoa học “huyền diệu” này.
A. VÀI NÉT CHUNG CỦA CUNG VÔ CHÍNH DIỆU:
Thế
nào gọi là cung vô chính diệu?
Cung
Vô Chính Diệu là cung không có chính tinh tọa thủ.
Cung
nào không có chính tinh tọa thủ thì cung đó gọi là cung Vô Chính Diệu, chẳng
hạn: Mệnh Vô Chính Diệu, Bào Vô Chính Diệu, Quan Vô Chính Diệu, Điền Vô Chính
Diệu...
Khi
luận giải, thường áp dụng: Lấy chính tinh tọa thủ của cung xung chiếu làm chính
tinh tọa thủ cho cung vô chính diệu nhưng dù có được chính tinh sáng sủa xung
chiếu, được Tuần Triệt án ngữ thì cũng chỉ đưa đến sự tốt đẹp cho cung vô chính
diệu ở mức 7 hoặc 8 phần, chứ không thể rực rỡ cả 10 phần như có chính tinh
sáng sủa tọa thủ được.
Tuy
nhiên, nếu rơi vào 3 trường hợp dưới đây thì không áp dụng theo thông lệ:
1.
Vô Chính Diệu có hung tinh đắc địa độc thủ:
Trường
hợp này hung tinh đắc địa phải là hành Hỏa hoặc hành Kim, hợp với hành bản Mệnh
và không bị Tuần Triệt án ngữ, mới được hưởng thế đẹp của hung tinh đó đem đến.
2.
Chỉ khi nào rơi vào hai trường hợp:
Được
Nhật Nguyệt xung chiếu hoặc tam hợp chiếu (Nhật Mão, Nguyệt Mùi) thì mới sử
dụng bộ Nhật Nguyệt làm nòng cốt, còn các trường hợp khác dù có Nhật Nguyệt
chiếu cũng lấy chính tinh xung chiếu làm chính tinh tọa thủ.
3.
Vô Chính Diệu Đắc Tam Không:
Chỉ
khi nào vô chính diệu có Tuần hoặc Triệt thủ, được 2 trong 3 sao là Tuần,
Triệt, Thiên Không chiếu thì mới là cách Vô Chính Diệu Đắc Tam Không. Với cách
này mệnh Hỏa đẹp hơn Mệnh Kim, các Mệnh khác tuy không giàu có nhưng cuộc sống
không đến nỗi xấu, cũng được tạm đủ hoặc kha khá. Trường hợp này, nếu có hung
tinh tọa thủ dù lạc hãm cũng chỉ làm xấu một chút, không đáng lo ngại lắm về
họa của sao này gây ra.
Những
điểm cần lưu ý với cung vô chính diệu:
-
Ngoại trừ trường hợp cung Vô Chính Diệu có hung tinh đắc địa độc thủ thì không
nên có Tuần, Triệt án ngữ, còn các trường hợp khác của cung Vô Chính Diệu đều
rất cần có Tuần hoặc Triệt án ngữ. Nếu không có Tuần, Triệt án ngữ thì ảnh
hưởng của chính tinh xung chiếu yếu đi, và dù có nhiều sao sáng sủa hội chiếu
thì sự tốt đẹp cũng chỉ ở mức độ trung bình khá. Khi cung Vô Chính Diệu có Tuần
hoặc Triệt án ngữ thì ban đầu tuy có gặp khó khăn, trở ngại nhưng về sau lại
thuận lợi, tốt đẹp. Tuần Triệt ở đây còn có tác dụng ngăn trở các sao xấu chiếu
về cung Vô Chính Diệu, và giải cứu được trường hợp “phi yểu tắc bần” nếu Mệnh
Vô Chính Diệu.
-
Vô Chính Diệu được Tuần án ngữ tốt đẹp hơn được Triệt án ngữ. Nếu Tuần Triệt án
ngữ đồng cung thì cung Vô Chính Diệu này chỉ ở mức độ trung bình, không tốt
cũng không xấu. Trường hợp này không cần quá chú trọng đến các sao hội chiếu vì
ảnh hưởng của các sao này không nhiều vì Tuần đã ngăn các sao tốt chiếu về, còn
Triệt thì ngăn cản các hung tinh chiếu tới trong khi các sao tại bản cung thì
bị cả Tuần lẫn Triệt vây trảm.
-
Chỉ khi nào ở Tứ Mộ thì cung Vô Chính Diệu mới được hưởng những cách hay của
các sao tam hợp chiếu. Còn tại các cung khác, cung Vô Chính Diệu chỉ chịu ảnh
hưởng của các sao trực chiếu. Đặc biệt, tại Tứ Mộ thì Vô Chính Diệu rất cần
Tuần Triệt án ngữ.
-
Trường hợp vô chính diệu được 3 sao Tuần, Triệt, Thiên Không hợp chiếu mà không
có Tuần, Triệt án ngữ thì là cách Kiến Không.
-
Trường hợp vô chính diệu được 3 sao Tuần, Triệt và Địa Không hợp chiếu thì
không tính là cách đắc tam không.
-
“Trường hợp cung vô chính diệu có Tuần - Triệt thì cũng không sử dụng được các
sao xung chiếu cũng như tam hợp như khi cung Vô chính diệu không có Tuần -
Triệt mà phải căn cứ vào trạng thái vượng suy của cung theo vòng Trường sinh và
chỉ sử dụng các sao tại bản cung để xét đoán cho đến khi nhập vận có chính
tinh.” (theo TỬ VI CHÂN TRUYỀN)
-
Trường hợp vô chính diệu mà không có Tuần, Triệt án ngữ, lại có sao Thiên Không
thủ là cách ngộ Không, là người quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc đời thăng trầm
cực khổ. Nếu gặp thêm các sao Không khác hội chiếu thì càng xấu, cuộc đời hoặc
thăng trầm cực khổ hoặc sẽ bị chết yểu. Nếu lại có hung tinh lạc hãm, khác với
hành của bản Mệnh tọa thủ thì càng nguy hiểm hơn.
-
“Trường hợp Mệnh hoặc Cung vô chính diệu có Tuần (Triệt) và cung đối xứng có
Triệt (Tuần) thì khi đại vận chưa nhập vào cung Vô chính diệu thì vẫn chỉ sử
dụng các sao tại bản cung để luận cho đến khi vận nhập vào cung Vô chính diệu
thì cách luận như đối với trường hợp Tuần - Triệt tháo gỡ nhau.” (theo TỬ VI
CHÂN TRUYỀN)
B. KHÁI QUÁT VỀ CÁC CUNG VÔ CHÍNH DIỆU
Ở
phần trên, người viết đã khái quát những nét chung của cung vô chính diệu
để bạn đọc lưu ý khi coi số. Ở phần này, người viết trình bày khái quát về các
(12) cung vô chính diệu để bạn đọc khi lướt qua lá số, có thể “nhìn thấy” được
“vấn đề” nằm ở đâu trên 12 cung của lá số mà đưa ra vài lời nhận xét khái quát
về cung đó.
Đánh
giá về sự tốt xấu của các cung (vô chính diệu) thì tùy từng trường hợp mà luận
giải, nhưng cơ bản cũng dựa vào cách đánh giá cung vô chính diệu như đã trình
bày ở phần trên. Khi luận giải, sự gia giảm mức độ tốt xấu phải dựa trên bối
cảnh Mệnh - Thân - Phúc - Hạn và các sao khác thủ chiếu tại cung vô chính diệu
đó để gia giảm mức độ tốt xấu.
Vài
nét sơ luận về 12 cung:
1.
MỆNH:
Mấy
lưu ý về người Mệnh Vô Chính Diệu:
-
Lúc còn nhỏ thường vất vả, lận đận, hoặc hay đau yếu, khó nuôi. Lớn lên, giảm
thiểu được bệnh tật, tai họa do nhạy bén hoặc linh cảm được được sự việc sắp
xảy ra. Nếu là con trưởng thì không sống gần cha mẹ, nếu gần cha mẹ thì dễ chết
non hoặc nghèo hèn.
-
Thường là con vợ hai, vợ lẽ hoặc nàng hầu. (Điều này người viết thấy không mấy
đúng nhưng vì sách Tử Vi nói vậy nên cứ liệt kê.)
-
Cuộc sống trôi nổi, cho dù đắc cách thì cũng hoặc phú quý chỉ một thời, hoặc
đáng hưởng phú quí thì lại chết.
-
Làm phụ tá thì bền, làm trưởng thì không bền. Vì thế, nên hoạt động trong bóng
tối hoặc ẩn danh là tốt nhất.
-
Không có lập trường vững vàng, tư tưởng không ổn định (trừ một số trường hợp
đặc biệt đã nêu ở phần A) nhưng dễ thích ứng với hoàn cảnh.
-
Nữ Mệnh Vô Chính Diệu thì đỡ xấu hơn Nam Mệnh Vô Chính Diệu
-
Mệnh Vô Chính Diệu thì cần Hỏa mệnh và Kim mệnh vì Mệnh Vô Chính
Diệu như nhà không nóc, cần bản mệnh có hành khí mạnh mẽ cứng cỏi làm nồng
cốt. Các mệnh khác như Thổ, Thủy, Mộc thì không tốt.
-
Mệnh Vô Chính Diệu Đắc Tam Không thì khi đương số sinh ra, bố mẹ thường hoặc sẽ
phát đạt hoặc bị khủng hoảng, tai nạn trong một thời gian. Và cuộc đời đương số
bao giờ cũng có sự thay đổi bất ngờ.
-
Mệnh Vô Chính Diệu có hung tinh độc thủ thì cần đồng hành với bản Mệnh mới là
thật tốt.
-
Mệnh Vô Chính Diệu mà không có Tuần, Triệt án ngữ, lại có sao Thiên Không thủ,
gọi là cách ngộ Không, là người quyền biến khôn ngoan nhưng cuộc đời thăng trầm
cực khổ. Nếu thêm các sao Không khác hội chiếu thì càng xấu, cuộc đời hoặc
thăng trầm cực khổ hoặc sẽ bị chết yểu. Nếu lại có hung tinh lạc hãm, khác với
hành của bản Mệnh tọa thủ thì càng nguy hiểm hơn.
-
Mệnh Vô Chính Diệu có tam không (Thiên không, Địa không, Địa kiếp), được nhiều
cát tinh hội họp, lại có các vận liên tiếp tốt đẹp thì đương số thường được
sung sướng từ bé nhưng dễ bị yểu tử.
-
Mệnh Vô Chính Diệu nếu có sao Thiên Tướng, Tướng Quân... đóng mà gặp Tuần Triệt
án ngữ thì dễ đưa đến tai họa bất ngờ cho đương số.
-
Mệnh vô chính diệu mà cung Tử cũng vô chính diệu thì cả đời không con hoặc khổ
về vấn đề con cái.
2.
QUAN LỘC
Quan
Lộc vô chính diệu thì đương số thường không bền chí, nghề nghiệp cũng hay thay
đổi, công danh thấp, bình thường, hoặc có công danh nhưng không bền. Nếu không
rơi vào những trường hợp đặc biệt thì dù được các sao sáng sủa hội họp nhưng
đường quan lộc cũng không hiển đạt.
Nếu
Quan Lộc vô chính diệu, có hung tinh độc thủ thì hoạch phát công danh nhưng
cũng không được bền.
Nếu
được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì công danh tuy chậm nhưng cũng tạm
khá, đương số thường hoạt động trên lĩnh vực chính trị hoặc kinh tế. Trường hợp
này nếu được Tuần hoặc Triệt án ngữ sẽ làm tăng vẻ tốt đẹp của công danh, càng
về sau công danh càng tốt tuy ban đầu có gặp trắc trở. (Cũng cần lưu ý rằng:
gặp Tuần thì công danh tuy buổi đầu có trắc trở nhưng sau vẫn sáng lạn còn gặp
Triệt thì chỉ khá hơn chút chút và công danh không bền.)
Trường
hợp có Tuần Triệt án ngữ và được nhiều sao sáng sủa hội chiếu thì công danh
cũng trước bị trở ngại, sau tuy khá nhưng sự nghiệp cũng không bền, thường
hoạnh phát hoạnh phá. Nếu Tuần Triệt án ngữ đồng cũng thì công danh chỉ ở mức
bình thường cho dù có được các yếu tố khác như Mệnh Thân Phúc Hạn… tốt
3.
TÀI BẠCH
Tài
Bạch vô chính diệu thì tiền tài không đều đặn, lúc có lúc không, nếu có tiền
của thì cũng không tụ được lâu, tụ tán thất thường. Cho dù có được nhiều sao
sáng sủa hội họp, lại lấy chính tinh xung chiếu (đắc địa) làm tọa thủ thì cũng
không thể giàu có lớn được.
Nếu
Tuần Triệt án ngữ thì đương số may mắn hơn trong việc kiến tạo tiền bạc cho mình.
Trường hợp này, nếu được nhiều sao tốt đẹp hội chiếu thì ban đầu kiếm
tiền thường khó khăn, sau mới thuận lợi nhưng cũng không thể giàu có được.
Nếu
có hung tinh đắc địa độc thủ thì sẽ hoạnh phát nhưng thường hoạnh phá, không
bền, chỉ giàu có một giai đoạn.
Nếu
được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì thật tốt đẹp, may mắn về tiền bạc, nhất
là càng về già càng nhiều tiền của. Trường hợp này, nếu được thêm Tuần, Triệt
án ngữ, đặc biệt là Tuần, thì đương số sẽ thêm nhiều may mắn, thuận lợi trong
việc kiếm tiền và chắc chắn là người giàu có lớn.
4.
THIÊN DI
Thiên Di vô chính diệu thì nhìn chung sẽ
không thể giàu có lớn được, cho dù có nhiều sao sáng sủa hợp chiếu. Ra ngoài dễ
bị chi phối (tiêu cực) bởi môi trường, ngoại cảnh.
Nếu
được Tuần Triệt án ngữ thì cuộc sống sẽ tốt hơn nhưng lại dễ chết xa nhà.
Nếu
Hung sát tinh độc thủ thì ra ngoài dễ kiếm tiền, thường kiếm được tiền một cách
bất ngờ, nhưng lại hao hụt nhanh chóng, kiểu hoạnh phát hoạnh phá vậy.
Nếu
được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì khá tốt đẹp, đương số sẽ gặp nhiều may
mắn, thuận lợi khi ra ngoài. Trường hợp này, nếu được Tuần, Triệt án ngữ (nhất
là Tuần) thì sự may mắn, thuận lợi tăng lên nhiều.
5.
PHÚC ĐỨC
Phúc
vô chính diệu thì đương số thường phải xa cách họ hàng hoặc không được sống gần
người thân, ruột thịt. Nếu được chính tinh sáng sủa xung chiếu và cát tinh hội
họp thì chắc chắn đương số sẽ được hưởng phúc, sống lâu và may mắn.
Nếu
Phúc cung vô chính diệu đắc tam không tất sẽ được hưởng phúc lộc dồi dào. Tuy
nhiên, chỉ những người Mệnh Kim, Mệnh Hỏa mới được hưởng hết những ưu điểm của
cách này, kỳ dư các Mệnh khác, được hưởng không nhiều.
Nếu
Hung Tinh đắc địa độc thủ thì đương số cũng được hưởng phúc lộc nhưng chỉ trong
một giai đoạn mà thôi. Tại Dần Thân nếu gặp Đà La độc thủ thì thường hưởng
phúc, sống lâu.
Nếu
Phúc vô chính diệu được Nhật Nguyệt sáng sủa hợp chiếu thì rất tốt, đương số
được hưởng phúc, sống lâu, được nhờ cậy họ hàng. Trường hợp này, nếu gặp Tuần
Triệt án ngữ thì số mệnh của đương số càng tốt đẹp ở nhiều phương diện.
Phúc
vô chính diệu rất cần gặp Tuần, không nên gặp Triệt. Nếu gặp Tuần thì hưởng
phúc, sống lâu, gặp Triệt thì họ hàng khá giả nhưng không bền cho dù được nhiều
sao tốt hội chiếu, còn bản thân dễ phải ly hương lập nghiệp, xa cách người
thân.
6.
ĐIỀN TRẠCH
Điền
vô chính diệu thường là người không được hưởng di sản của cha ông để lại, phải
tự tay tạo lập điền sản nhưng phải sau 40 tuổi mới hy vọng có chút tài sản của
riêng mình.
Người
có cung Điền vô chính diệu thường hay thay đổi chỗ ở, điền sản, cuộc đời cũng
thăng trầm bất định, khi lên khi xuống, nhà đất khó giữ, cho dù có sao giữ của
như Quả Tú. (Có quan điểm cho rằng: Điền vô chính diệu là khi đương số ra đời,
kinh tế của bố mẹ đang gặp cảnh khó khăn, sau đó mới giàu có dần.)
Nếu
gặp Tuần Triệt án ngữ (hoặc Tuần, Triệt đồng cung) thì buổi đầu tuy gặp trắc
trở trong việc tạo dựng điền sản, như: thường phải thay đổi chỗ ở, mua rồi lại
phải bán đi, thành bại thất thường... nhưng sau dễ dàng thuận lợi. Tuy vậy, về
già mới được ổn định nhưng nhà đất chỉ ở mức trung bình.
Nếu
cung Điền vô chính diệu đắc tam không thì điền sản tuy khá nhưng cũng không
bền.
Nếu
được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì trước trắc trở nhưng càng về sau càng
thuận lợi, nhiều nhà đất, điền sản. Trường hợp này nếu được Tuần Triệt án ngữ
sẽ càng tốt hơn, đương số sẽ rất giàu có và có rất nhiều nhà đất.
Nếu
Hung sát tinh độc thủ thì tài sản tạo nên bất ngờ nhanh chóng, nhưng cũng suy
bại khá nhanh, đặc biệt là Hỏa Linh Không Kiếp. Còn Kình Đà độc thủ thì tuy
hoạnh phát hoạnh phá nhưng sau cùng vẫn được khá giả.
7.
NÔ BỘC
Nô
Bộc vô chính diệu thì bạn bè và người giúp việc (tôi tớ) không bền, dễ ly tán.
Nếu gặp Tuần hoặc Triệt án ngữ thì tốt hơn, tôi tớ đắc lực hơn, lúc trước mướn
người khó khăn nhưng sau thì dễ hơn nhưng tôi tớ cũng không bền.
Nếu
Nô cung vô chính diệu, được Hung sát tinh độc thủ thì tôi tớ rất đắc lực nhưng
thường hay lấn át chủ. Đương số có nhiều bạn bè tài giỏi, làm ăn táo bạo, nhưng
thường nằm trong giới giang hồ, xã hội đen.
Nếu
được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì thật tốt đẹp: Người giúp việc đắc lực,
trung thành và có nhiều bạn bè khá giả, tận tâm giúp đỡ đương số.
8.
PHỤ MẪU
Phụ
Mẫu vô chính diệu thì đương số thường phải ly hương lập nghiệp, không được
hưởng di sản của cha mẹ; cha mẹ thọ nhưng không giúp đỡ được con cái bao
nhiêu, hoặc con cái không báo hiếu được cha mẹ nhiều.
Nếu
gặp Tuần hoặc Triệt án ngữ thì cha mẹ tuy được tốt hơn nhưng đương số dễ khắc
cha hoặc khắc mẹ, hoặc đương số phải sớm xa cách cha mẹ, như xa quê vì mưu sinh
hay đến làm con nuôi người khác.
Dù
cung Phụ - Mẫu (vô chính diệu) có được nhiều cát tinh hội họp thì đương số cũng
nên sớm xa gia đình, tốt nhất là xuất ngoại thì hậu vận mới mong có thể có công
danh được.
9.
PHU THÊ
Phu
Thê vô chính diệu thì thường chậm lập gia đình, hoặc không yêu ai mặn nồng,
chóng yêu chóng chán, không có xu hướng lập gia đình mạnh mẽ và thường lập gia
đình một cách bất ngờ. Nên muộn lập gia đình để tránh bị hình, chia ly.
Nếu
gặp Tuần Triệt án ngữ thì buổi đầu tuy khó khăn, trắc trở nhưng sau được tốt
hơn, tuy vậy cũng nên lập gia đình trễ, không nên lập gia đình sớm. Gặp Tuần
tốt hơn gặp Triệt.
Người
Hỏa Mệnh, nếu được Đắc Tam Không thì rất tốt, vợ chồng may mắn, hòa thuận.
Nếu
Hung Sát tinh độc thủ thì vợ chồng tuy đều giỏi giang nhưng không hòa thuận, dễ
hình khắc hoặc chia ly.
Nếu
được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì vợ chồng tốt đẹp, hòa thuận.
10.
TỬ TỨC
Tử
Tức vô chính diệu thì thường không có con, ít con, hoặc chậm con, hoặc không
nhờ cậy được con, hoặc con đầu lòng sinh ra khó nuôi. Nhưng nếu có Tuần, Triệt
án ngữ thì đương số thường chậm có con hoặc sinh con ban đầu khó nuôi nhưng sau
này con cái rất khá giả.
Nếu
Hung tinh đắc địa độc thủ thì con cái khá giả nhưng khó nuôi con hoặc muộn sinh
con, hoặc con cái không hợp với cha mẹ.
Nếu
Tử Tức vô chính diệu, được Nhật Nguyệt sáng sủa hợp chiếu thì đương số sẽ thuận
lợi, may mắn về đường con cái và con cái sau này khá giả, quí hiển. Trường hợp
này nếu được thêm Tuần, Triệt án ngữ, nhất là Tuần, thì sự may mắn về đường con
cái của đương số sẽ tăng thêm nhiều.
Nếu
Tử Tức vô chính diệu mà Mệnh lại vô chính diệu nữa thì chắc chắn đương số cả
đời vất vả về đường con cái, rất dễ rơi vào khả năng tuyệt tự, không có con.
11.
HUYNH ĐỆ
Huynh
Đệ vô chính diệu thì thường không được nhờ cậy anh chị em, hoặc anh chị em ly
tán, không ở gần anh chị em.
Nếu
được Tuần Triệt án ngữ thì tốt lên, nhưng anh (hoặc chị) trưởng thường chết
sớm. Trường hợp này, anh chị em lúc tiền vận thường long đong nhưng về hậu vận
sẽ khá giả.
Nếu
được Nhật Nguyệt sáng sủa hội chiếu thì anh chị em thương yêu nhau, giúp đỡ
nhau. Trường hợp này có thêm Tuần Triệt án ngữ thì càng tốt, anh chị em thuận
hòa, quý hiển.
12.
TẬT ÁCH
Cung
Tật Ách vô chính diệu thì chắc chắn đương số là người khỏe mạnh, ít bệnh tật
tai họa nhưng khi tai họa đến thì khó tránh khỏi, phải gánh chịu hậu quả xấu.
Nhưng nếu được Tuần Triệt án ngữ thì thật tốt, đương số sẽ ít bệnh tật, tai
họa.
LỜI KẾT
Để
đơn giản và hiệu quả việc tự học, tự áp dụng kiến thức khoa Tử Vi vào luận giải
lá số và ứng dụng vào cuộc sống, người viết đã cố viết thật đơn giản, thật dễ
hiểu, thật ngắn gọn nhưng rõ nghĩa, đủ nghĩa những điểm cơ bản, những lưu ý cần
cẩn trọng với bạn đọc về 12 cung vô chính diệu trên lá số.
Hy
vọng, những cố gắng của người viết sẽ (ít nhiều) giúp ích cho bạn đọc trong
việc tự học, tự áp dụng kiến thức khoa Tử Vi vào cuộc sống!
*
Viết tại làng Đá, Quang Vinh, Tháng 07
năm 2008
Viết lại, những ngày cuối xuân năm
2015
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 31.5.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Thưa tác giả !
Trả lờiXóaCung tật ách VCD ko Tuân - triệt , theo cụ Thiên lương nói tốt hơn là có Tuần - triệt. Nhận định này có đúng ko ạ ?
Tật ách (dậu) là VCD ko có tuần triệt, phụ mẫu (Mão) có dương lương vượng địa nhưng bị địa ko và tuần triệt. Thì xét đoán ra sao ạ ?
Nô (mùi: tứ mộ) có địa kiếp (hãm địa), huynh đệ (sửu) có đồng cự hãm địa. Cung tử (Hợi) có Âm miếu địa, phụ mẫu (mão) có dương lương vượng địa nhưng bị địa ko và tuần triệt ! Vậy phải xét luận ra sao ạ ?
Mong hồi âm !
bài viết rất hay, để biết cung nào vcd các ban hãy lập Lá Số Tử Vi để xem nhé.
Trả lờiXóaRất ít tài liệu nói về vô chính diệu, đây là bài viết hay và chi tiết về cung vô chính diệu. Một dạng cách hay và khó xem trong khoa tử vi. https://anphatglass.com/ có nhiều cung VCD trong lá số, nay đã hiểu hơn rất nhiều
Trả lờiXóa