Home
» Góc thư giãn
» Luận về Địa Không, Địa Kiếp/ 10 lưu ý khi chọn đất để đặt huyệt mộ – Bài viết Đặng Xuân Xuyến (Hà Nội)
Luận về Địa Không, Địa Kiếp/ 10 lưu ý khi chọn đất để đặt huyệt mộ – Bài viết Đặng Xuân Xuyến (Hà Nội)
Thứ Sáu, 12 tháng 6, 2015
Muốn luận giải chuẩn khi coi số, người coi số phải hiểu rõ về bản chất của Địa Không, Địa Kiếp, mới hy vọng có được một phần nhỏ hữu ích cho việc cải số. Nếu làm đựơc như thế cũng đã là mãn nguyện rồi!
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Đặng Xuân Xuyến
Họ
tên Đặng Xuân Xuyến
Sinh
sống tại Hà Nội,
ĐT:
0903413075
_____
LUẬN VỀ
ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP
(Trích
trong TỬ VI Kiến giải của Đặng Xuân Xuyến, NXB Thanh Hóa, 2009.)
Địa
Không, Địa Kiếp là 2 sao ác tinh hạng nặng trong số các tinh đẩu của khoa Tử
Vi. Khi coi số, người xem rất sợ gặp phải 2 tên đồ tể hạng nặng này, nhất là
khi chúng hãm địa, bởi sức phá hoại của Không, Kiếp thật tàn bạo, khốc liệt,
không những ảnh hưởng trực tiếp từ tính chất côn đồ của sao tới cung, Mệnh
(Thân) mà còn phá hỏng các cách đẹp khác của các tinh đẩu. Sức ảnh hưởng của 2
sát tinh này mạnh ngang ngửa với chính tinh đắc địa, thậm chí còn phá hỏng cả
cách đẹp của những chính tinh đắc địa. Đây thật sự là 2 sao tàn bạo, gieo rắc
những đau thương, bất hạnh, những nghiệp chướng oan nghiệt mà con người khó
cưỡng chế được.
Muốn
luận giải chuẩn khi coi số, người coi số phải hiểu rõ về bản chất của Địa
Không, Địa Kiếp, mới hy vọng có được một phần nhỏ hữu ích cho việc cải số. Nếu
làm đựơc như thế cũng đã là mãn nguyện rồi!
I. ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP:
1.1
Hiệu lực của Địa Không, Địa Kiếp:
Địa
Không, Địa Kiếp là hai sát tinh nặng nhất, mạnh nhất trong các sao xấu. Tuy chỉ
là phụ tinh nhưng ảnh hưởng của hai sao này mạnh ngang ngửa với chính tinh đắc
địa. Chỉ riêng một trong hai sao cũng đủ hóa giải hầu hết hiệu lực của sao tốt
nhất là Tử Vi, thậm chí có thể làm cho Tử Phủ trở thành phá cách.
Ở
những cung đắc địa thì Không Kiếp bén nhậy, can đảm, thành công, giầu có. Ở các
cung hãm địa thì Không Kiếp trở nên ích kỷ, gian lận, lưu manh và trộm cướp bất
lương, nói tóm lại, đó là tính nết của phường côn đồ.
Do
bản chất là Sát Tinh nên dù Không Kiếp có đóng ở nơi đắc địa (Tỵ, Hợi, Dần,
Thân) tuy có góp phần làm gia tăng tài danh một cách nhanh chóng nhưng cái may
thường đi liền với cái rủi. Sự nguy hiểm bao giờ cũng còn tiềm phục và sẵn sàng
tác họa, nếu gặp hung tinh khác. Vị trí tốt nhất của Không, Kiếp là Tỵ. Tại
đây, chủ sự hoạnh phát mau chóng và bất ngờ về quan, tài, vận hội... bộc phát
chói lọi được một thời gian.
Tại
Hợi, Không Kiếp cũng có nghĩa như vậy nhưng cường độ kém hơn nhưng cũng nhờ đó
mà nếu có tai họa thì sự suy trầm, xuống dốc sẽ không nhanh chóng như khi ở Tỵ.
Tại
Tỵ và Hợi, Kiếp Không bao giờ cũng đồng cung cho nên hệ số gia tăng gấp bội về
lợi cũng như về bất lợi.
Còn
ở Dần Thân, Kiếp - Không độc thủ và xung chiếu nên sự phát đạt không mạnh bằng
ở Tỵ hay Hợi. Tuy vậy, Không Kiếp ở Dần, Thân dù có nhiều Cát Tinh cũng là một
cuộc đời chìm nổi, lên xuống thất thường. Không, Kiếp ở Dần tốt hơn ở Thân.
Kiếp,
Không đắc địa gặp Tuần, Triệt án ngữ có nghĩa như hãm địa và những luận đoán
phải đảo ngược. Trái lại, Kiếp, Không hãm địa gặp Tuần, Triệt án ngữ sẽ chế
giảm hay triệt tiêu sức phá hoại của sát tinh này nhưng không hẳn biến thành
tốt đẹp.
1.2
Phạm vi ảnh hưởng của Địa Không, Địa Kiếp:
Vốn
là sao Hỏa nên sức phá hoại của Kiếp, Không hãm địa rất mạnh, nhanh chóng và
bất ngờ. Tai họa càng gia tăng cả về số lượng lẫn cường độ, cả cho mình lẫn cho
người thân, thậm chí còn ảnh hưởng đến toàn thể cuộc đời, nếu gặp thêm hung sát
tinh khác đi cùng hoặc không có nhiều sao cứu giải đủ mạnh.
Sự
hiện diện của Không, Kiếp ở các cung quan yếu như Phúc, Mệnh, Thân (nếu hãm
địa) đánh dấu sự xuống dốc mau chóng và những tai hoạ dồn dập, bất khả kháng.
Gặp nó, con người hầu như bị tràn ngập bởi các yếu tố bất khả cưỡng, không còn
chủ động được trên nhiều tình huống. Nếu thiếu nhiều sao cứu giải mạnh mẽ, Kiếp
Không báo hiệu cho một cái chết nhanh chóng, bất ngờ và tàn bạo. Ngay ở những
vị trí đắc địa (Tỵ, Hợi, Dần, Thân), Không Kiếp vẫn tiềm ẩn sức phá hoại không
nhỏ, cuộc đời vẫn gặp những đắng cay, bất hạnh như thường.
Ngoài
ra, càng về già, hai sao Kiếp, Không càng tác họa mãnh liệt hơn các hung sát
tinh khác.
Không
Kiếp được ví như một nghiệp chướng bám vào con người, tượng trưng cho những
trường hợp bất khả kháng, khó chế ngự. Đây thật sự là 2 sao tai họa cho con
người.
II. ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP VỚI CÁC SAO KHÁC:
2.1
Những sao chế giải sự hung hiểm của Không, Kiếp hãm địa:
Khi
ở hãm địa, hai sao này tác họa rất mạnh, dù có gặp sao chế giải thì hung họa
vẫn tiềm tàng, chỉ giảm bớt được ít nhiều chứ không mất hẳn. Khi gặp Không,
Kiếp hãm địa, sự tốt đẹp của cát tinh bị Không, Kiếp làm giảm đi nhiều hơn là
cát tinh làm mất sự hung họa của Kiếp, Không.
Về
các chính tinh, chỉ có Tử Vi và Thiên Phủ miếu và vượng địa mới có nhiều hiệu
lực đối với Kiếp, Không. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng bộ Sát, Phá, Liêm,
Tham là thầy của lũ sát tinh nên nếu Sát, Phá, Liêm, Tham đắc địa, nhất là Phá
Quân đắc địa sẽ khắc chế và thuần phục lũ sát tinh giảm tác oai tác quái.
Theo
quan điểm của cụ Thiên Lương thì: “Không, Kiếp là ác sát không bao giờ tử tế
với ai, chỉ trừ có 1 Phá Quân là vị chỉ huy tối cao trực tiếp bản tính hung bạo
chỉ chuyên phá hoại. Không, Kiếp vốn là hạng dao búa hợp tình hợp cảnh nên chịu
phục tùng hùa nhau gây sự chẳng lành. Trường hợp Phá Quân đắc địa hay Không,
Kiếp ở Dần, Thân, Tỵ, Hợi chỉ nhất thời đưa nhau lên, sau vẫn tàn tạ như mọi vị
trí khác.”
“Xin
thưa Tử Phủ Vũ Tướng đừng hòng lấn át Lục Sát tinh, dẫu là Tử, Phủ đắc địa gặp
họ cũng đắc địa càng có sự tranh chấp quyết liệt. Nếu hoàn cảnh Tử, Phủ hãm, họ
qua mặt như vào chỗ không người ngăn cản. Còn nói khi Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương
gặp họ hầu như hoàn toàn bị chi phối tùy theo bộ sao Lục Sát và vị trí đắc hay
hãm địa của họ”.
Về
các phụ tinh có: Tuần, Triệt, Thiên Giải và Hóa Khoa là 4 sao tương đối mạnh.
Những sao giải khác không đủ sức chế ngự Kiếp, Không hãm địa.
2.2
Những sao làm gia tăng ác tính của Không, Kiếp hãm địa:
Đi
với võ tinh hãm địa như Sát, Phá, Liêm, Tham thì Kiếp, Không càng tác họa mạnh
mẽ cả về cường độ lẫn phương diện.
Những
sát tinh hãm địa khác như Kình, Đà, Linh, Hỏa hay Tả, Hữu cũng góp phần làm gia
tăng hiểm họa do Kiếp Không hãm địa gây ra.
Những
hình tinh, bại tinh... cũng góp phần làm gia tăng tác họa hung hiểm của Không,
Kiếp hãm địa.
2.3
Địa Không, Địa Kiếp và các sao khác:
Nhìn
chung khi Địa Không, Địa Kiếp kết hợp với sao khác để tạo thành bộ, thành cách
thì phần nhiều là gây tai họa cho cuộc sống con người, nhất là khi Không, Kiếp
hãm địa.
Sách
Tử Vi liệt kê một số trường hợp sau:
-
Kiếp, Không đắc địa gặp Tướng, Mã, Khoa thủ Mệnh: Là người tài giỏi, lập được
sự nghiệp lừng lẫy trong cảnh loạn ly.
-
Kiếp, Không đắc địa với phi thường cách (Tử Phủ Vũ Tướng đắc địa, Sát Phá Liêm
Tham đắc địa, được sự hội tụ của cát tinh đắc địa như Tả, Hữu, Khôi, Việt,
Xương, Khúc, Long, Phượng, Đào, Hồng, Khoa, Quyền, Lộc và của sát tinh đắc địa
như Kình, Đà, Không, Kiếp, Hình, Hổ): Là cách nguyên thủ, đế vương, hội đủ tài
đức và vận hội, có cả lương thần và hảo tướng trợ giúp, xây dựng chế độ, lưu
danh tiếng lừng lẫy cho hậu thế.
- Không,
Kiếp ở Dần Thân gặp Tử Phủ tất làm hại Tử Phù.
-
Kiếp Không Tử Phủ cùng đắc địa: Gặp nhiều bước thăng trầm trong công danh, sự
nghiệp, tài lộc. Nếu Tử Phủ bị Tuần, Triệt thì mối hung họa hiểm nghèo, khó
tránh.
-
Kiếp Không với Kình, Đà, Hỏa, Linh: Nếu cùng đắc địa thì phú quý được một thời.
Nếu cùng hãm địa thì rất nguy hiểm tính mạng, sự nghiệp, tài danh, suốt đời gặp
nhiều chuyện đau lòng. Dù đắc địa hay hãm địa, cả trai lẫn gái đều khắc vợ, sát
phu.
-
Không, Kiếp, Đào, Hồng: Gặp nhiều nghiệp chướng về ái tình, đau khổ điêu đứng
trong tình duyên, phải cưới xin nhiều lần. Riêng phụ nữ, thì bị tai nạn trinh
tiết (bị dụ dỗ, lường gạt, mất trinh, thất tiết, hoặc có thể bị hãm hiếp).
Người có bộ sao này còn bị yểu mạng, hay mắc bệnh phong tình, phái nữ thì đa
phu, hồng nhan bạc mệnh có thể là gái giang hồ, nếu chưa chồng thì là người rất
lang chạ.
-
Không, Kiếp ngộ Thiên Tướng thì phải bị thần phục, sự phá hoại giảm đi nhiều.
Tuy nhiên, nếu Thiên Tướng ở Mão, Dậu thì rất cần sao Thiên Tài đồng cung, nếu
không Thiên Tướng này cũng chỉ là Tướng quèn không cản nổi Không, Kiếp.
-
Không Kiếp ngộ Thất Sát, Phá Quân miếu, vượng lại có thêm Tả Hữu thì uy dũng,
quyền biến, sai khiến được người khác. Nhưng bản chất vẫn là bạo phát, bạo tàn.
-
Không, Kiếp đứng với Hóa Quyền là người trắc trở công danh.
-
Không Kiếp đứng cùng Tả Hữu ở Mệnh, là người tâm ý thích lừa gạt.
-
Kiếp, Cơ (hay Hỏa Tinh): Bị hỏa tai như cháy nhà, bỏng lửa.
-
Kiếp, Tham đồng cung: Bị thủy tai (chết đuối, bị giết dưới nước), nếu không
cũng chật vật lang thang độ nhật, dễ sa vào đường tù tội.
-
Không (Kiếp), Binh, Hình, Kỵ: Gian phi, trộm cướp, du đãng, côn đồ theo nghĩa
toàn diện (ăn cắp, khảo của, hiếp dâm, giết người)
-
Kiếp, Không, Tử, Tham: Cách tu sĩ nhưng vì ảnh hưởng của Kiế,p Không nên có thể
kẻ tu hành này có dịp phá giới, trở lại trần hoàn.
-
Kiếp, Phù, Khốc, Khách, Cự, Nhật: Biểu hiện cho tai họa, tang khó, đau buồn
liên tiếp và chung thân bất hạnh.
III. Ý NGHĨA CỦA ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP Ở CÁC
CUNG:
Hầu
hết vị trí của Kiếp, Không tại các cung đều có ý nghĩa bất lợi, xấu xa và gây
tai họa nặng nề. Sách Tử Vi liệt kê ảnh hưởng của Không, Kiếp tới cuộc đời của
đương số trên 12 cung như sau:
BÀO:
Không có anh chị em hoặc anh chị em ly tán; Anh chị em rặt một lũ côn đồ, đĩ
điếm; Không nhờ vả được anh chị em mà còn phải bị liên lụy vì họ (vì Kiếp,
Không bấy giờ giáp Mệnh).
MẪU:
Cha hoặc mẹ mất sớm, chết thảm hoặc bị hình tù, ly cách; Không nhờ vả được cha
mẹ mà có khi phải gánh nợ di truyền của cha mẹ để lại.
PHỐI:
Sát phu, sát thê hoặc góa bụa bất ngờ; có thể không có gia đình, nếu có gia
đình thì hay phải xa cách lâu dài vì tai nạn xảy ra cho 1 trong 2 người; Phải
2, 3 lần lập gia đình, lần nào cũng nhanh chóng.
Cung
Phu có Hồng Loan gặp Địa Kiếp, nếu Mệnh tốt thì sống bên nhau suốt đời, nếu Mệnh
xấu thì chỉ sống với nhau được khoảng mười năm thì nhẹ là phải chia ly, nặng
thì sinh ly tử biệt.
TỬ:
Không con, hiếm muộn, ít con hoặc phải ở xa con cái; Sát con rất nhiều hoặc con
du đãng, đĩ điếm không nhờ vả được mà còn phải bị di lụy; Con cái phá sản
nghiệp của cha mẹ.
TÀI:
Nếu đắc địa thì hoạnh phát nhanh chóng một thời nhưng về sau phá sản cũng rất
nhanh. Thường thường kiếm tiền bằng những phương cách táo bạo (buôn lậu, ăn
cướp, sang đoạt) và ám muội (đầu cơ, tích trữ, buôn bán đồ quốc cấm). Nếu hãm
địa là kẻ vô sản, bần nông.
DI:
Bị chết xa nhà và chết thảm và thường chết nhanh chóng, đột tử; Bị kẻ thù hãm
hại (ám sát, phục kích)...
NÔ:
Tôi tớ phản chủ, hại chủ, giết chủ; Bạn bè xấu, tham lận, lường gạt; Nhân tình
ám hại, bêu xấu, bòn của..
QUAN:
Công danh thấp kém, làm ăn rất chật vật; Bị khinh ghét, dèm pha, không thăng
tiến; Bị mất chức ít ra một lần Nếu đắc địa, có bộc phát được một thời nhưng
sau cũng tàn lụi hoặc phải lên voi xuống chó.
ĐIỀN:
Nếu đắc địa, có điền sản một dạo nhưng phải mua đi bán lại nhiều lần, nếu hãm
địa là người vô sản, bị sang đoạt, bị phá sản, bị tai họa về điền sản (cháy
nhà, nhà sập... ) hoặc sang đoạt, tạo điền sản bằng phương tiện táo bạo, ám
muội.
PHÚC:
Trừ phi đắc địa thì được hưởng lộc một thời, còn Kiếp, Không hãm địa chủ sự bất
hạnh lớn về nhiều phương diện: Dòng họ sa sút, lụn bại, vô lại, sự nghiệp tan
tành, tuổi thọ bị chiết giảm, đau ốm triền miên vì bệnh nan y.
HẠN:
Nếu đắc địa, sẽ bộc phát tài danh mau lẹ nhưng phải lâm bệnh nặng về phổi, mụn
nhọt hoặc phải đi xa. Nếu hãm địa, rất nhiều tai nguy về mọi mặt: Bị bệnh nặng
về vật chất và tinh thần (lo buồn); Bị mất chức, đổi chỗ vì kỷ luật; Bị hao
tài, mắc lừa, mất của, thất tình; bị kiện cáo; Bị chết nếu gốc nhị Hạn xấu.
IV: NHỮNG CÂU PHÚ VỀ ĐỊA KHÔNG, ĐỊA KIẾP:
-
Địa Kiếp độc thủ thị kỳ phi nhân.
Có
nghĩa: Mệnh có Địa Kiếp đứng một mình là người ích kỷ, luôn cho mình là phải.
-
Địa Kiếp chi đan tâm phương lẫm.
Có
nghĩa: Địa Kiếp thủ Mệnh với nhiều quí tinh thì lòng dạ sắt son, kiên định.
-
Dần, Thân, Không, Kiếp nhi ngộ quí tinh thăng trầm vô độ.
Có
nghĩa: Mệnh tại Dần, Thân có Kiếp, Không tọa thủ dẫu có gặp nhiều sao đẹp hội
họp thì trên đường đời vẫn gặp nhiều thăng trầm bất định, tiền tài như đám mây
trôi nổi, tụ tán thất thường.
-
Tỵ, Hợ,i Kiếp ,Không nhi phùng Quyền, Lộc hoạnh đạt tung hoành.
Có
nghĩa: Kiếp, Không tại Tỵ Hợi có Quyền, Lộc hội họp tất là người tài giỏi
nghênh ngang nhưng cũng lại rất bôn ba, mau phát mau tàn.
-
Kiếp, Cơ ngộ Hỏa tất ngộ hỏa tai
Có
nghĩa: Mệnh có Thiên Cơ, Địa Kiếp gặp Hỏa Tinh xung chiếu hoặc đồng cung thì
thường hay gặp hỏa tai như cháy nhà, cháy xưởng hoặc bị bỏng do lửa...
-
Nhan Hồi yểu tử do hữu Kiếp, Không, Đào, Hồng, Đà, Linh tọa thủ
Có
nghĩa: Thầy Nhan Hồi chết yểu chỉ vì Mệnh có Kiếp, Không, Đà, Linh toạ thủ.
-
Kiếp, Không, Phục Binh phùng Kình Dương nhẫn lột thượng kiếp đồ.
Có
nghĩa: Mệnh hội Kiếp, Không, Phục Binh, Kình Dương làm côn đồ kẻ cướp.
-
Mệnh cung ngộ Kiếp, Tham lãng lý hành thuyền
Có
nghĩa: Mệnh Địa Kiếp đứng cùng Tham Lang cuộc đời nổi trôi bất định.
-
Mệnh Không, Thân Kiếp lai hội song Hao, vô chính diệu thiểu học đa thành.
Có
nghĩa: Mệnh tại Mão có song Hao, Địa Không đồng cung, Thân cư quan tại Mùi, có
Địa Kiếp thì người tuổi Tân, Quý hay người Thủy Mệnh là người thông minh, học
ít hiểu nhiều tất thành đạt quý hiển.
-
Mệnh Không, Thân Kiếp lại hội song Hao ư chính diệu, thiểu học đa thành mạc ngộ
Phúc Âm, Hao tinh niên thọ nan cầu vượng hưởng
Có
nghĩa: Mệnh Không, Thân Kiếp thêm song Hao mà Mệnh không chính tinh thì học
giỏi. Nhưng Mệnh Không, Thân Kiếp lại tối kị gặp Đồng, Lương, Phá Quân hãm địa
thì khó thọ
-
Giáp Không giáp Kiếp chủ bần tiện. Giáp Kình giáp Đà vi khất cái.
Có
nghĩa: Cung Thân hoặc Mệnh có hai sao Không, Kiếp giáp biên tất là số nghèo
hèn. Nếu lại giáp Kình, Đà là số bôn ba, xuôi ngược kiếm kế sinh nhai.
-
Xuất thế vinh hoa Quyền, Lộc thủ Tài Quan chi vị. Sinh lai bần tiện, Kiếp,
Không lâm Tài Phúc chi hương.
Có
nghĩa: Quyền và Lộc tọa thủ miếu địa tại Tài hoặc Quan, gia hội nhiều cát tinh,
nhất định đắc cách phú quý vinh hoa. Địa Không, Địa Kiếp đóng vào Phúc hoặc Tài
là người vận kiếp nghèo hèn.
-
Mệnh trung ngộ Kiếp, Tham do lãng lý hành thuyền.
Có
nghĩa: Mệnh có Kiếp, Tham tọa thủ đồng cung, giống như ngồi thuyền trên sóng
cả. Có cách này thì trọn đời lao khổ, nay đây mai đó và hay mắc tai nạn sông
nước.
-
Văn Xương, Văn Khúc hội Liêm Trinh táng Mệnh yểu niên. Mệnh Không, hạn Không vô
cát tấu, công danh thặng đặng.
Có
nghĩa: Xương, Khúc thủ Mệnh tại Tỵ, Hợi, nếu ngộ Liêm Trinh tất bị chết yểu.
Người tuổi Tân tối kỵ gặp phải cách này. Nhưng nếu được Vũ, Tướng tụ hội lại
đắc cách, chủ có uy quyền. Mệnh và nhị hạn phùng Không gia Kiếp, dù được nhiều
cát tinh củng chiếu thì đường công danh vẫn lận đận, cheo leo, không theo ý
muốn. Hoặc có chính tinh hội tam Hóa và cát tinh mà gặp Không, Kiếp tại Mệnh và hạn, dù có chuyên cần đèn
sách cũng chỉ đạt nửa vời.
-
Mệnh Thân đồng cung Tỵ, Ngọ hoặc cư Tuyết xứ, vô chính tinh.
Có
nghĩa: Mệnh Thân đồng cung vô chính diệu tại Tỵ, Ngọ, Hợi lại hội Mã, Linh,
Hình, Kiếp, Không cùng chiếu, ví như hoa nở gặp mưa to gió lớn, tất chung thân
tân khổ, hình thương hoặc yểu vong.
-
Miếu nhi bất tú, Khoa danh hãm ư trung thần. Phát bất chủ Tài, Lộc chủ triền ư
nhược địa.
Có
nghĩa: Hóa Khoa bị hãm với Không, Kiếp hoặc Dương, Đà đồng cung cho nên tài hoa
mà yểu tử, do Khoa bị hãm với hung sát vật. Hóa Lộc không làm vượng được tài
lộc vì Hóa Lộc bị nhược địa với Kiếp, Không hoặc Lộc lâm Tý, Ngọ, Mão, Dậu cũng
vậy, chẳng những Lộc bị vô dụng mà còn chủ cô đơn, bần hàn nữa.
-
Tý, Ngọ Tham Đào, Ất Kỷ âm nam, lập nghiệp do Thê, kiêm năng sát diệu, hành sự
dụng thê.
Có
nghĩa: Người âm nam, tuổi Ất, Kỷ, mệnh lập tại Tý, Ngọ hội với Tham, Đào có vợ
là người đảm lược, lập thành cơ nghiệp. Trái lại, nếu hội với sát tinh là người
có thể quên điều chính nghĩa, dùng vợ vào các việc mưu cầu danh lợi.
-
Thân cư quan, kiến Triệt, Tuần Kiếp, Kỵ nam nhân phong vân vị tế, hựu phùng cát
diệu, vũ lộ thừa ân, khả đãi vãn niên dĩ hậu.
Có
nghĩa: Nam số có Thân cư Quan, nếu gặp Triệt, Tuần, Kiếp, Kỵ đồng cung, buổi
thiếu thời tất phải lận đận, bôn ba vì không gặp thời cơ. Nếu có được cát tinh
củng chiếu, cũng phải đợi tới lúc vãn niên mới được hưởng phúc lộc và tạo thành
cơ nghiệp.
-
Đế tinh tại Tý nan giải hung nguy, lưu họa sát tinh La, Võng lao hình khôn vị
thoát. Mệnh nãi Dương, Đà, Kiếp hội vi thành thọ giảm.
Có
nghĩa: Mệnh có Tử Vi tại Tý là hãm, khi tốt tới vận hạn xấu nếu lại gặp sát
tinh tất hung nguy, khó thoát lao tù. Nếu cung Mệnh có Dương, Đà, Địa Kiếp hội,
đến hạn La Võng có hung sát tinh rất nguy cho tính mạng.
-
Hạn chi Thiên Võng Khuất Nguyên tịch thủy nhi vong. Vấn ngộ Kiếp, Không (Thiên
Không), Nguyễn Tịch hữu bần cùng chi khố.
Có
nghĩa: Ông Khuất Nguyên tự trầm vì nhị hạn tới cung Thìn Tuất gặp Vũ, Tham,
Tuế, Tang, Điếu, Hổ ngộ hung tinh chiếu lại thành tối hung tại hạn. Ông Nguyễn
Tịch lâm cảnh bần cùng vì nhị hạn gặp Kiếp, Không tọa thủ lại tính hạn lưu niên
cũng có sát tinh củng chiếu nên phải chịu cảnh nghèo hèn. (Hạn gặp Không, Kiếp
dù được cát tinh phù trì thì cũng không thể tránh được cảnh tiền bạc tới rồi
tiền bạc lại đi).
-
Âm Dương vạn sự Xương, Khúc, Kiếp, Không.
Có
nghĩa: Muốn luận sự hay dở của Nhật Nguyệt thì phải xét kỹ 4 sao Xương, Khúc,
Kiếp, Không. Âm Dương hội họp với Xương, Khúc là cách đẹp, còn hội với Kiếp,
Không là phá cách, nhẹ thì số lận đận lao đao, nặng thì gặp tai họa.
-
Nhật Nguyệt Sửu Mùi tối cần Kỵ, Không phả vi đại cát.
Có
nghĩa: Nhật Nguyệt tọa thủ đồng cung tại Sửu, Mùi là thế hỗn độn, nếu gặp được
Không Vong (Tuần, Triệt, Thiên Không, Địa Không) sẽ tạo thành một cách đẹp, nếu
thêm cả Hóa Kỵ nữa thì thật là một kỳ cách.
-
Vũ Khúc, Kiếp Sát hội Kình Dương nhân tài trì đao.
Có
nghĩa: Vũ Khúc, Kiếp Sát thủ Mệnh hội với Kình Dương là người giỏi về đao pháp.
-
Lộc cư Nô bộc trong hữu quan dã bôn trì. Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô
đạo.
Có
nghĩa: Hóa Lộc (hoặc Lộc Tồn) thủ cung Nô thì dù có được công danh cũng bôn ba,
lận đận. Tử Vi ngộ Không, Kiếp suốt đời chẳng làm được việc gì nên thân. Nhưng
nếu Tử Vi ngộ Hình, Kỵ hội Quyền, Lộc thì dẫu có đẹp đấy nhưng vẫn là kẻ có tâm
thuật bất chính, gian manh.
-
Sinh sứ Kiếp, Không thủ Mệnh do như bán thiên triết sỉ.
Có
nghĩa: Kiếp, Không thủ Mệnh ở Tỵ, Hợi, Dần, Thân là nơi của sao Tràng sinh lên
như diều gặp gió, xuống như chúi vào bùn đen.
-
Sinh phùng Thiên Không do như bán thiên triết sỉ. Mệnh trung ngộ Kiếp hợp như
lãng lý hành thuyền.
Có
nghĩa: Mệnh có Thiên Không tọa thủ về trung vận tất phải suy giảm, nếu đắc
hoạnh phát sau tất chết dữ. (Người tuổi Tý Mệnh tại Hợi, người tuổi Ngọ Mệnh
tại Tỵ hay gặp cách này). Cung Mệnh có sao Địa Kiếp gia Sát, Kỵ rất hung, giống
con thuyền nhỏ đi trên biển vậy.
-
Hạng Vũ anh hùng hạn ngộ Thiên Không nhi thân táng quốc. Thạch Sùng hào phú hạn
hành Địa Kiếp dĩ vong gia.
Có
nghĩa: Anh hùng như Sở Bá Vương, hạn gặp Thiên Không cũng phải mất nước. Giàu
phú gia địch quốc như Thạch Sùng hạn phùng Địa Kiếp, gia tài tất thảy cũng tan
nát.
-
Khôi Việt trùng phùng Sát Tấu cố tật ưu đa.
Có
nghĩa: Lưu niên Khôi Việt trùng phùng, ngộ Dương, Đà, Không, Kiếp chủ bị mang
cố tật.
-
Lộc chủ triều ư nhược địa, Mệnh bất chủ tài.
Có
nghĩa: Hóa Lộc (hoặc Lộc Tồn) lạc hãm là bại địa, hoặc Lộc ngộ Không, Kiếp là
số không làm được ra tiền của.
- Khoa
danh hãm ư hung thần, miêu nhi bất tú.
Có
nghĩa: Nhật cư Tuất, Nguyệt cư Mão, gặp Khoa hãm địa hoặc hội Dương, Đà, Không,
Kiếp là chủ sự tài hoa mà bạc mệnh, là người có tài mà chết non.
-
Kiếp, Không lâm hạn, Sở Vương táng quốc Lộc Châu vong.
Có
nghĩa: Sở Bá Vương bị mất nước, cũng như người Lộc Châu chết, đều vì nhị hạn
gặp Kiếp Không (hoặc Thiên Không).
-
Sinh xứ Kiếp Không do như bán thiên triết sỉ.
Có
nghĩa: Thân và Mệnh nếu an tại các cung hãm địa, có Không, Kiếp lâm thủ, chẳng
khác gì con chim “giữa trời gãy cánh”.
-
Kiếp, Không Tài Phúc chi hương, sinh lai bần tiện.
Có
nghĩa: Địa Không, Địa Kiếp đóng vào cung Phúc hoặc Tài là người mới sinh ra đã
chịu cảnh nghèo hèn.
-
Thiên Thương gia ác diệu, Trọng Ni tuyệt lương, Đặng Thông vong.
Có
nghĩa: Hạn Thiên Thương ngộ Địa Không, Địa Kiếp, Đức Trọng Ni bị đói ở đất Tần,
cũng như Đặng Thông bị thiệt mạng vì gặp phải hạn như vậy.
-
Sinh phùng bại địa phát dữ như hoa. Tuyệt xứ phùng sinh hoa như bất bại.
Có
nghĩa: Mệnh ở vào hãm địa, dù có gặp được cơ hội may mắn thì cũng chóng tàn.
Người Thủy Mệnh, Hỏa Mệnh nếu Mệnh ngộ sao Tuyệt tại Tý, Hợi với Không, Kiếp là
được cách “tuyệt xứ phùng sinh” và được hưởng thêm cách “phản vi kỳ” nếu tam
phương được Khoa, Quyền, Lộc củng chiếu.
-
Thiên Đồng thủ Mệnh tại Tỵ, Hợi hội Địa Không, Kình Dương là người tàn tật,
không ưa ai, chỉ sống cô độc.
-
Kiếp, Không Tỵ Hợi, Tướng, Mã đồng cư nhi hội Khoa tinh, loạn thế phùng quân.
Có
nghĩa: Kiếp, Không đồng cung tại, Tỵ, Hợi gặp Tướng, Mã đồng cung và được Khoa
chiếu là người có tài, gặp được quý nhân để làm nên sự nghiệp hiển hách trong
thời loạn.
V. NHỮNG TRƯỜNG HỢP ĐẶC BIỆT CỦA ĐỊA KHÔNG,
ĐỊA KIẾP:
5.1:
Những đặc lệ của Kiếp, Không ở Mệnh:
Theo
tác giả Nguyễn Phát Lộc thì Kiếp, Không thủ Mệnh có những đặc lệ sau:
a.
Mệnh vô chính diệu có Tứ hay Tam Không: Đây là một cách rất tốt về phú quý
nhưng vẫn không toàn vẹn, tức là: Hoặc vất vả mới đạt danh tài, hoặc thụ hưởng
không lâu bền, bộc phát giai đoạn.
b.
Mệnh Không, Thân Kiếp: Là người khôn ngoan, sắc sảo nhưng trong đời vui ít buồn
nhiều, thành bại thất thường, làm việc gì cũng chóng nhưng cũng mau tàn. Nếu có
Đại Tiểu Hao hội họp thì hóa giải được nhiều bất lợi và lập được công danh hiển
hách. Tuy nhiên, nếu có Thiên Đồng, Thiên Lương hay Phá Quân ở Mệnh hay Thân
thì yểu mạng.
c.
Mệnh Kiếp, Thân Không: Người khôn ngoan, sắc sảo nhưng bại nhiều, thành ít,
chóng lên chóng xuống, thăng trầm bất ngờ, thất thường. Nếu Mệnh vô chính diệu
có Đào Hồng thì yểu mạng, nếu không lúc nhỏ rất vất vả, gian truân. Nếu Mệnh,
Thân có Nhật Nguyệt hay Tử Vi sáng sủa tốt đẹp thì đủ ăn đủ mặc.
5.2:
Những trường hợp ngoại biệt của Kiếp, Không:
-
Người Tứ Mộ (sinh Thìn, Tuất, Sửu, Mùi) không sợ Không, Kiếp lắm. Ngay cách
Mệnh Không Thân Kiếp rất xấu với các tuổi nhưng với tuổi Tứ mộ này thì lại không
bị xấu.
-
Người Mệnh Kim, Mệnh Thổ không sợ cách Mệnh Không Thân Kiếp như các tuổi khác,
ngược lại còn danh tài hoạnh phát, chung thân phú quý.
-
Người sinh tháng 4, tháng 10 được hưởng cách Kiếp Không vô luận, vì những người
sinh 2 tháng này được Tả, Hữu đồng cung tại Sửu, Mùi mà những người Tả Hữu Sửu
Mùi này đều có tài năng khéo léo, biết tính trước ngừa sau, không quá hấp tấp
vội vã, không tự tung tự tác, không sôi máu Không, Kiếp nên Không, Kiếp không
gây họa!
-
Người sinh tháng Giêng, tháng Bẩy cũng không đáng ngại Không, Kiếp hành hạ vì
có Tả, Hữu nằm chực sẵn tại chỗ (Thìn, Tuất) nên rất dè dặt, cẩn thận trong
công việc.
-
Kiếp, Không Tỵ, Hợi phát dã như lôi nhưng chỉ người Tứ Mộ mới được hưởng trọn
vẹn cách đó, còn các tuổi khác kém hơn và không được bền.
-
Kiếp, Không tại Dần, Thân không gây tác hại bởi khi phù, khi diệt nên cuộc đời
thăng trầm bất định, tiền tài nay tụ mai tán nhưng không bị tai họa nặng nề như
8 vị trí hãm địa khác.
LỜI KẾT:
Trong
hệ thống các sao Tử Vi thì Địa Không, Địa Kiếp là 2 sao ác sát, không bao giờ
tử tế với ai (trừ một số trường hợp ngoại biệt đã nêu). Cho dù ở thế đắc địa
thì Không, Kiếp vẫn tiềm ẩn những tai họa có thể sẽ gây cho đương số những bất
trắc, đau khổ trên nhiều phương diện mà sức người khó cưỡng chế. Còn khi hãm
địa thì sức phá hại của Không, Kiếp trở nên bạo liệt, tàn ác cả về số lần họa
hại lẫn cường độ gây họa trên nhiều bình diện khiến con người hoàn toàn bất
lực.
Không
như các tinh đẩu khác còn chịu sự khắc chế của các sao khác, nhất là các cát
tinh nhưng Không, Kiếp lại rất ít sao có thể khắc chế được (phần nào) tính côn
đồ, chuyên gây họa của Không, Kiếp mà ngược lại, nhiều khi cát tinh lại bị
Không, Kiếp (nhất là khi hãm địa) phá hết những cách tốt đẹp, làm cho cuộc đời
con người trầm luân trong đau khổ, bất hạnh.
Đây
thật sự là 2 ác tinh hạng nặng của đời người. Vì thế, khi coi số cần cứu xét
thật cẩn thận về thế đứng của Kiếp, Không để lời luận giải đưa ra được chính
xác.
Hà Nội, cuối năm Quý Mùi (2004)
***
10 LƯU
Ý KHI CHỌN ĐẤT ĐỂ ĐẶT HUYỆT MỘ
Hiện
nay, sách về phong thủy và các bài viết hướng dẫn tìm thế đất tốt để đặt huyệt
mộ khá nhiều nhưng các bài viết đó hay dùng các thuật ngữ của phong thủy, viết
đã dài, lan man, lại không giải thích cụ thể, thậm chí dùng thuật ngữ còn sai.
Ví dụ: “Theo sách địa lý kim cổ ngôi huyệt đúng đất gọi là “huyệt trường”, phải
có “tiền án”, “hậu trẫm” (thực ra là “tiền án hậu chẩm” (núi án phía trước, núi
gối phía sau), tác giả đã dùng sai thuật ngữ) “tả long”, “hữu hổ”, tức là có
những mô đất cao thấp tượng trưng cho án huyệt ao nước, tay long, tay hổ. Ngoài
ra trước huyệt phải có “minh đường Thủy tụ” phía sau phải có “long mạch thu
thúc”, phía ngoài phải có “bàng sa triều củng”, cốt phải có “tụ khí tàng phong”…Khiến người đọc thấy rối rắm, phức tạp, khó tiếp nhận thông tin
cần thiết.
Vì
thế, tôi tổng hợp và soạn 10 điểm lưu ý khi chọn đất để đặt huyệt mộ.
Nếu
bạn không nhiều “tham vọng”, chỉ ước muốn “mồ yên mả đẹp” để con cháu được
hưởng bình an, phú túc và phát phúc đều đều thì bài viết này có thể giúp bạn tự
tìm thế đất tốt đặt huyệt mộ cho người quá cố, đáp ứng niềm mong mỏi của bạn.
Cụ
thể:
1.
- Nơi đặt mộ phải cao ráo (vừa phải), cây cỏ tươi tốt, phía trước huyệt mộ cần
thoáng đãng, không bị che chắn... Nếu huyệt mộ nằm trên đồi (hoặc khu đất),
được các dòng nước chảy dưới chân bao bọc; hoặc được đồi núi (gò đất) hai bên
ôm lấy huyệt mộ ở giữa, phía sau có núi (đồi) cao che chắn, phía trước có ao,
hồ, sông nước thì đấy là những thế đất rất tốt để đặt huyệt mộ.
2.
- Nơi đặt mộ rất cần yên tĩnh, tránh xa nơi ồn ào, náo nhiệt, có đường đi lối
lại... Phạm phải, âm trạch sẽ bị nhiễu, tổn hại tới hồng phúc của con cháu. Nếu
mộ có đường đi (hoặc dòng nước) đâm thẳng vào giữa, hoặc đâm xuyên sang hai
bên, hoặc đường đi sát ngay phía sau là tối kỵ, chủ lụn bại, tổn hại nhân đinh.
3.
- Nơi đặt mộ rất cần tránh nơi nhiều gió để tụ khí. Tối kỵ đặt mộ ở địa thế
cao, trơ trọi, sẽ phạm vào thế gọi là “cô phong sát”, đón gió bốn phương, làm
cho khí bị tan tác, dẫn đến con cháu bị lụn bại, gặp nhiều xui xẻo, dễ tổn
đinh, tuyệt tự.
4.
- Nơi đặt huyệt mộ phải tránh chỗ trước đã có người chôn rồi; hoặc có xương thú
như voi, trâu, bò, lợn... Phạm phải, con cháu bị bệnh nan y và chết trùng tang
liên tục (nhiều người) trong vòng 3 năm.
5.
- Nơi đặt mộ long mạch phải chảy, không bị cắt đứt, nếu phạm phải, con cháu sẽ
ốm đau bệnh tật, chết bất đắc kỳ tử hay tuyệt tự, không có con trai nối dõi.
Cũng không được đặt mộ gần cây lớn, phòng rễ cây đâm vào hài cốt người quá cố
sẽ bị động mộ, con cháu sẽ gặp những điều xui xẻo, tổn phúc.
6.
- Nơi đặt huyệt mộ phải tránh mặt đất bị lồi lõm, hình dáng kỳ dị, đất đá khô
cứng hoặc đặt trên đồi núi đứng đơn độc.
7.
- Nơi đặt huyệt mộ tối kỵ đặt trên hoặc cạnh nước ngầm (không phải là mạch nước
ngầm); hoặc dưới đáy huyệt mộ có đất đá lổn nhổn sẽ khiến mộ dễ bị sụt, tổn hại
đến phúc lộc của con cháu, dòng họ.
8.
- Nếu đặt mộ ở nghĩa trang cần tránh bị các mộ xung quanh lấn chiếm, hoặc nằm
án ngữ ngay trước, hoặc đâm xuyên vào 2 bên cạnh mộ. Phạm phải thì con cháu lụn
bại, tổn hại nhân đinh, nhất là gia đình con trai trưởng của người quá cố.
9.
- Khi đào đất (nơi sẽ đặt huyệt mộ) thấy đất phía dưới xốp, nhẹ, đỏ mịn như
tròng đỏ hột gà, hoặc có màu ngũ sắc, màu hồng vàng, màu son đậm, màu hồng có
vân là đất đẹp, rất tốt cho đặt huyệt mộ.
10
- Khi đào đất lên, đến độ sâu áng chứng sẽ là đáy huyệt phải có mạch nước ngầm
(không phải là nước ngầm), nước trong xanh, có mùi thơm. Tối kỵ nước đục, bị ô
nhiễm hoặc đáy huyệt không có mạch nước ngầm.
+
Hà Nội, 15 tháng 05 năm 2015
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Hà Nội ngày 13.6.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét