Home
» Biên khảo - Tư liệu
» Lý luận phê bình
» Người đàn ông Đồng tính (trích Điểm yếu của người đàn ông mạnh mẽ) – Tác giả Đặng Xuân Xuyến
Người đàn ông Đồng tính (trích Điểm yếu của người đàn ông mạnh mẽ) – Tác giả Đặng Xuân Xuyến
Thứ Năm, 28 tháng 5, 2015
Từ lúc cất tiếng khóc chào đời,
những bé trai đã được bố mẹ và gia đình rèn rũa, dạy bảo theo khuôn
mẫu văn hóa truyền thống: Cương cường, dũng mãnh, lạnh lùng và quyết
đoán. Có nghĩa, là người đàn ông thì không được “bám váy” mẹ, không
được “yếu đuối”, không được khuất phục trước bất kỳ khó khăn, trở
ngại nào. Văn hóa truyền thống không chấp nhận quan điểm của các nhà
tâm lý học hiện đại, như Elisabeth Badinter chẳng hạn, thừa nhận:
“Giới tính nữ là giới tính cơ bản.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Đặng Xuân Xuyến
Họ
tên Đặng Xuân Xuyến
Sinh
sống tại Hà Nội,
ĐT:
0903413075
_____
NGƯỜI ĐÀN ÔNG ĐỒNG
TÍNH
(trích trong cuốn ĐIỂM YẾU CỦA NGƯỜI ĐÀN ÔNG
MẠNH MẼ - Đặng Xuân Xuyến; Nhà xuất bản Thanh Hóa; 2006)
Từ
lúc cất tiếng khóc chào đời, những bé trai đã được bố mẹ và gia
đình rèn rũa, dạy bảo theo khuôn mẫu văn hóa truyền thống: Cương
cường, dũng mãnh, lạnh lùng và quyết đoán. Có nghĩa, là người đàn
ông thì không được “bám váy” mẹ, không được “yếu đuối”, không được
khuất phục trước bất kỳ khó khăn, trở ngại nào. Văn hóa truyền
thống không chấp nhận quan điểm của các nhà tâm lý học hiện đại, như
Elisabeth Badinter chẳng hạn, thừa nhận: “Giới tính nữ là giới tính
cơ bản. Người nam được hình thành bằng sự đấu tranh với tính nữ
nguyên thủy ngay từ khi còn trong bào thai. Vì giới tính nữ là giới
tính cơ bản nên trong người đàn ông vừa có tính nam vừa có tính nữ.
Muốn phát triển thành người đàn ông là một cuộc đấu tranh không
ngừng ở mọi lúc.”. Trong những tác phẩm của mình, (đúng hơn là
những công trình nghiên cứu khoa học) bà đã đưa ra những phác thảo về
khuôn mẫu người đàn ông trong thế kỷ XXI đối lập khá nhiều với những
gì mà văn hóa truyền thống đã khắc họa.
Trong
lời giới thiệu tác phẩm NHÂN DẠNG NAM của Giáo sư Elisabeth Badiner,
dịch giả Nguyễn Xuân Khánh viết: “Xã hội hiện đại dựa trên cơ sở
bình đẳng nam và nữ, nó nhất thiết dẫn tới chỗ tạo ra sự giống
nhau giữa hai giới. Mục đích công bằng chính trị ấy xuất sinh từ
quyền con người. Chính từ sự bình đẳng ấy, trên thực tiễn ta nhận
thấy bản chất con người gồm cả tính nam và tính nữ. Người đàn bà
đã xâm nhập vào mọi lĩnh vực trước kia chỉ dành cho người nam, họ
trở nên lưỡng tính và giống người nam. Đảo lại người nam cũng lưỡng
tính như vậy.”. Có lẽ vì thế mà không ít quý ông rất sợ phải sống
với chính con người giới tính thật của mình. Họ sợ những phút giây
mềm yếu trong con người: Sợ tính nữ nguyên thủy biến họ thành người
yếu đuối, đồng tính, nhu nhược, hèn kém trong bất kỳ thời điểm nào.
Mà điều đó, gia đình, xã hội và chính bản thân người đàn ông, bằng
lý trí không cho phép được sảy ra.
Nghiên
cứu về người đồng tính, các nhà tâm lý kết luận: Đời sống tình
cảm của nưgời đồng tính nam thường chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người
mẹ và mang nhiều tính nữ. Còn người đồng tính nữ thường chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ người bố và mang nhiều tính nam. Đây chính là điểm
cơ bản đầu tiên của người (đàn ông) đồng tính.
Chúng
ta đều biết, sự hình thành và phát triển tính nam của người đàn ông
không chỉ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ văn hóa truyền thống với những
chuẩn tắc khắc nghiệt mà còn chịu sự chi phối sâu sắc của huyền
thoại tình mẫu tử. Sự đối đầu giữa khuôn mẫu người đàn ông truyền
thống với huyền thoại tình mẫu tử, trong nhiều trường hợp đã làm
méo mó, biến dạng tâm sinh lý và giới tính của người đàn ông khi
trưởng thành. Thuyết bản năng mẫu tử, hay còn gọi huyền thoại tình
mẫu tử, đã “hợp thức hóa việc loại trừ người cha”, “tăng cường sự
cộng sinh giữa mẹ và con trai”, làm cho tính nữ nguyên sơ trong bé trai
bị kéo dài, dẫn tới sự phát triển lệch lạc về tâm sinh lý và giới
tính, cản trở và triệt tiêu tính nam của người đàn ông đang hình
thành trong đứa trẻ. Chính vì vậy mà người Anh, một thời gian khá
dài đã phản đối gay gắt sự “độc nhất” của người mẹ trong việc chăm
sóc và nuôi dưỡng bé trai. Elisabeth Badinter, giảng viên triết học
trường Polytenchnique (Pháp) nhấn mạnh: Lý thuyết bản năng mẫu tử đã
gây tha hóa và tội lỗi đối với phụ nữ và tỏ ra tàn hại đối với
trẻ nhỏ, đặc biệt đối với trẻ em trai. Qua nghiên cứu nhiều công
trình khoa học và các tác phẩm văn học (trên 3.000 tác phẩm văn học
và thân thế các danh nhân nổi tiếng), bà đưa ra kết luận: Trong số
những người đàn ông đồng tính, rất nhiều người sống gần gũi với mẹ
và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ người mẹ. Bà khuyến cáo: Hãy để bé
trai thường xuyên gần gũi và chịu ảnh hưởng từ người bố, sẽ giúp
bé trai thuận lợi cho việc phát triển tâm sinh lý người đàn ông của
đứa trẻ.
Trong
các công trình nghiên cứu về tính nam của người đàn ông, Giáo sư
Elisabeth Badinter đều cảnh báo sự thái quá trong việc chăm sóc, nuôi
dưỡng bé trai của các bà mẹ sẽ ảnh hưởng xấu đến sự hình thành
và phát triển tính cách người đàn ông của bé trai sau này. Tất
nhiên, sự “độc chiếm yêu thương” bé trai của các bà mẹ - như chúng tôi
đã trình bày trong mục NGƯỜI ĐÀN ÔNG TRẺ CON - không thể hoán đổi bé
trai từ người dị tính sang là người đồng tính mà chỉ là một trong
những căn nguyên “mở đường” cho sự phát triển từ khuynh hướng tình dục
đồng tính sang hành động đồng tính ở các bé trai. Đây là điều mà
các bà mẹ cần lưu tâm khi chăm sóc và nuôi dưỡng bé trai yêu quý của
mình.
Kensey,
bác sỹ người Mỹ, qua những cuộc điều tra xã hội học cho rằng: Cứ 3
người đàn ông Mỹ thì ít nhất 1 người đã từng có “trải nghiệm” quan
hệ luyến ái đồng giới. Còn người Anh thì “rất nhiều” người là dân
đồng tính.
Luận
điểm của Kensey khá gần với kết luận của Giáo sư Elisabeth Badinter
về lý do tại sao người Anh lên án thuyết bản năng mẫu tử, nhưng tỷ
lệ người đồng tính và quan điểm khuyến khích “phát triển đồng tính”
mà bác sỹ Kensey đưa ra thì không thể chấp nhận. Tuy nhiên, kết quả
Kensey đưa ra đáng để chúng ta suy ngẫm về hiện tượng những chú “gà
cồ” không thể cất tiếng gáy đang có xu hướng gia tăng trong xã hội
hiện đại.
Theo
thống kê của các nhà khoa học thì trên thế giới thì tỷ lệ người
đồng tính chiếm khoảng 3 - 5 % dân số nhưng số liệu đó chưa hẳn đã
chính xác. Kết quả phát hiện điều tra uy quyền của Mỹ lại cho con
số hoàn toàn khác về đồng tính (gay) nam: 35% thuần khiết yêu người
khác giới, 55% đã trải nghiệm đồng tính luyến ái, số còn lại hoặc
là đồng tính luyến ái hoàn toàn hoặc là lưỡng tính luyến ái. (Tâm
sinh lý nam nữ; trang 296; Ma Xlao Lian; Nhà xuất bản Hà Nội; 2004;
Thùy Liên dịch). Còn giới nữ thì sao? Kết quả điều tra của Kinxi và
Hăngri cho biết: “- Có khoảng 12% phụ nữ thực sự đồng tính luyến ái
hoặc tỏ rõ mong muốn được đồng tính luyến ái.” (Tâm sinh nữ phụ nữ;
trang 488; Vương Quốc Vượng; Nhà xuất bản Hải Phòng; 2003; Hà Kim Sinh
dịch.).
Gần
đây, các nhà khoa học về tâm lý và tình dục trên thế giới đã công
bố kết quả điều tra (độ tuổi từ 15 tuổi trở lên) ở thành phố San
Francisco (Hoa Kỳ) thì người đồng tính nam ở đây có tỷ lệ cao nhất
thế giới, khoảng 20% dân số (nam giới) của thành phố. (Theo báo Thanh
Niên số 100 (3761), ra ngày 10/04/2006 và báo Công an thành phố Hồ Chí
Minh số 1422, ra ngày 11/04/2006). Như vậy, tỷ lệ người đồng tính (nam)
đang gia tăng ở mức báo động.
Các
nhà tâm lý tình dục học nhấn mạnh: Điểm chung của người đồng tính
là sự “mặc cảm tội lỗi”, tâm lý hoảng loạn, dễ bị tổn thương. Do
“không giống ai” trong việc lựa chọn “đối tượng tình dục” và tình yêu
của họ không được xã hội chấp nhận nên người đồng tính luôn sống
trong tâm trạng mặc cảm, sợ sệt. Với người dị tính (tình yêu thuần
khiết với người khác giới), sự thể hiện tình cảm của mình với
“đối tượng” thường công khai, được xã hội chấp nhận (trong một chừng
mực, hoàn cảnh nhất định), còn người đồng tính thì ngược lại: Âm
thầm, lén lút vì sự kỳ thị của xã hội. Đây chính là lý do làm
người đồng tính dễ bị tổn thương, luôn sống trong tâm trạng hoảng
loạn và “mặc cảm tội lỗi”.
Một
điểm chung nữa thường thấy ở người đồng tính là: Không ai dám “tự
thú” mình là người đồng tính, trừ phi họ là người đồng tính ở cấp
độ “nặng” không thể giấu được, hoặc họ dũng cảm công bố khuynh hướng
tình dục của mình để được sống thanh thản, thoải mái hơn. Ngay cả
những người đồng tính với nhau, nhất là những người thuộc diện đồng
tính kín, còn gọi là đồng tính “ẩn”, dù “đọc” ra “chất” của nhau
cũng khó khăn trong việc họ thừa nhận mình là người đồng tính. Văn
hóa truyền thống, nhất là nền văn hóa Á Đông đã gây áp lực rất
lớn, buộc người đồng tính ở mọi cấp độ phải giấu đi giới tính
thực của mình, để đáp ứng những “chuẩn mực” của xã hội: Xây dựng
gia đình, sinh con đẻ cái...
Văn
hóa truyền thống, cộng với sức ép của cuộc sống cũng gây áp lực
rất lớn tới những người thân của người đồng tính. Khi được hỏi về
giới tính của bố, mẹ, con, em, chồng, vợ, bạn hữu... dù biết rõ
người thân của mình thuộc diện “lửng lơ 8 vía” thì họ vẫn dứt khoát
phủ nhận, cố chứng minh cho bằng được sự rõ ràng về giới tính của
người thân, để “bảo vệ danh dự” cho người thân của mình.
Trong
cuộc sống, có những người bỗng dưng thay đổi đối tượng tình dục, từ
dị tính sang đồng tính với lời bao biện do tiếp xúc nhiều với người
đồng tính vì công việc, vì stress hoặc vì bất hạnh trong cuộc sống
vợ chồng nên đã “vô tình chuyển hệ”... Họ đưa ra những lý lẽ, rằng
đã từng yêu rất nhiều người khác giới, rằng đã xây dựng gia đình từ
khi còn rất trẻ, thậm chí đã hai, ba lần xây dựng gia đình và
“chuyện ấy” luôn được bạn đời “tấm tắc” không chê vào đâu được... Tóm
lại họ không thừa nhận mình là người đồng tính mà đổ lỗi cho hoàn
cảnh. Họ không biết hoặc có thể họ biết nhưng cố tình phủ nhận
những “xung năng tình dục đồng giới” tồn tại trong cơ thể họ đang ở
dạng tiềm ẩn nên việc thừa nhận sự mập mờ về giới tính của họ
(bấy lâu) là điều không tưởng. Thực chất, nếu là người có giới tính
rõ ràng thì họ không thể “bị” người khác lôi kéo vào các mối tình
đồng giới, trừ phi vì mục đích kinh tế, vụ lợi.
Cũng
có người “bị” đồng tính nhưng không biết mình là đồng tính, bởi họ
vừa lớn lên là xây dựng gia đình, rồi sinh con đẻ cái, có cuộc sống
“bình thường” như bao gia đình dị tính, có khác chăng là trong con
người họ luôn có cảm giác bị bức bối, hụt hẫng và thiếu thiếu...
một “thứ gì đó” rất quan trọng nhưng cũng rất mơ hồ về lĩnh vực
tình cảm, nên cuộc sống gia đình của họ không được suôn sẻ. Giáo sư
Elisabeth Badinter giải thích: “Thông thường những người đàn ông này
cưới vợ hoàn toàn thực tâm, không biết những xung năng đồng tính
luyến ái của mình. Cưới vợ và có con dưới mắt họ là một giấy
chứng nhận về sự bình thường. Phần lớn họ chỉ nhận ra sự đồng
tính luyến ái của mình khi đã cưới vợ và làm bố. Sự có ý thức
đến dần dần, đau đớn và tạo mặc cảm tội lỗi một cách khủng khiếp
(Nhân dạng nam, trang 352). Báo cáo điều tra của ông Frader Green cho
chúng ta biết rõ hơn về nưgời đồng tính: “Trong số người đồng tính,
có 20% thuộc dạng tinh thần, chưa từng có quan hệ tình dục (có nghĩa
chỉ “yêu thích” người cùng giới trong suy nghĩ, tình cảm), có 35%
thỉnh thoảng có quan hệ tình dục đồng giới và 15% thường xuyên có
quan hệ tình dục đồng giới (...) Những khúc mắc tâm lý giới tính
của những “người vợ”là đàn ông và những “người chồng” là đàn bà
càng nghiêm trọng hơn. Họ thường rơi vào thế làm chủ trong dạng đồng
tính luyến ái.” (Tâm sinh lý nam nữ, Ma Xlao Lian; trang 200). Với
nhóm người này, khi gặp “đối tượng đặc biệt” trong hoàn cảnh cũng
“đặc biệt” sẽ lao vào cuộc tình đồng giới rất mãnh liệt. Ngôn ngữ
dân gian gọi họ là kẻ “đa hệ”, còn thuật ngữ của các nhà tâm sinh
lý tình dục học gọi họ là người “lưỡng tính luyến ái”, có nghĩa
họ là người có nhu cầu quan hệ sinh lý với cả 2 giới.
Điểm
chung nữa thường thấy ở người đồng tính là sợ sự đồng tính. Không
ít người cho rằng sở dĩ bị đồng tính là do những người đồng tính
thích như vậy. Thực ra, người đồng tính không thích như vậy và họ
không có quyền lựa chọn khuynh hướng tính dục. Với người dị tính,
chuyện đồng tính chỉ thực sự “ghê sợ” khi có sự “tiếp xúc thân mật”
hoặc “thể hiện tình cảm” từ đối tượng cùng giới nhưng với người
đồng tính, sự “ghê tởm” đó luôn thường trực trong suy nghĩ, hành
động.
Mặc
dù ghê sợ sự đồng tính nhưng người đồng tính không thể “triệt tiêu”
được ham muốn quan hệ sinh lý với người đồng giới. Họ lập hàng rào
ngăn cản “tình yêu đồng giới” nảy nở nhưng chính họ lại tự động phá
bỏ vì ý chí không thắng được tình cảm. Bằng lý trí, họ lẩn tránh
những gì liên quan tới chuyện đồng tính, thậm chí trốn chạy người
họ say đắm nhưng những xung năng tình dục đồng tính thúc giục, đến
chừng mực nào đó khiến họ bị khuất phục, gục ngã thật thảm hại.
Đó chính là mâu thuẫn, là nỗi đau không thể vượt qua của người đồng
tính. Và đây cũng là điểm chung nữa của người đồng tính.
Trong
cuộc sống, có người biết rõ mình có khuynh hướng tình dục đồng tính,
hoặc mơ hồ thấy những “bất ổn” về nhu cầu tình cảm và sinh lý đang
tồn tại trong con người, nên “cố gắng” hoàn thiện tố chất đàn ông
của mình theo chuẩn mực của văn hóa truyền thống nhưng lại quay sang
miệt thị, tấn công những người đồng tính khác. Trong mọi hoàn cảnh,
mọi tình huống, khi có cơ hội, họ sẽ lôi người đồng tính hoặc
chuyện của người đồng tính ra để gây cười, để khẳng định mình “rõ
ràng” về giới tính. Tại sao họ làm vậy? Giáo sư Elisabeth Badinter
giải thích: “Thực ra, sự sợ đồng tính liên quan tới nỗi sợ thầm kín
của những ham muốn đồng tính luyến ái của chính riêng bản thân họ
(...). Nỗi sợ đồng tính luyến ái vạch trần ra điều mà nó tìm cách
che đậy.”. (Nhân dạng nam, trang 240). Giáo sư Elisabeth Badinter cũng
khẳng định: Những người đàn ông thực thụ thường không có thái độ ác
cảm khi giao tiếp với người đồng tính vì họ tự tin vào tố chất đàn
ông của họ, không sợ tính nam của mình bị đe dọa. (Bà cũng không quên
chua rằng, người có tư tưởng “bài người đồng tính” mạnh mẽ thường
là người thuộc dạng “dân trí thấp”, chỉ số thông minh không cao.). Tuy
nhiên, theo thiển ý của người viết, “bản năng tự vệ” trong con người
họ - người đàn ông dị tính - vẫn có những biểu hiện để tạo ra
“khoảng cách” nhất định khi tiếp xúc với người đồng tính.
Nguyên
nhân dẫn đến đồng tính từng được các nhà khoa học cho rằng do gen,
hooc môn hoặc nhiễm sắc thể trong cơ thể bị xáo trộn, biến đổi. Nhưng
qua các thực nghiệm khoa học, các cuộc điều tra và thăm dò dư luận
thì lời khẳng định đó bị sụp đổ.
Khi
giải phẫu kiểm tra gen của người đồng tính, người ta thấy nhiễm sắc
thể không thay đổi mà chỉ có sự biến đổi rất nhỏ về gen. Còn hooc
môn chỉ có sự thay đổi về ngưỡng cảm thụ nội tiết tố tình dục vào
tuổi dậy thì. Đấy chưa phải là căn nguyên cho hành động đồng tính
phát triển.
Đi
xa hơn, các nhà tâm sinh lý tình dục đã tiến hành các cuộc khảo
sát, điều tra xã hội học về đồng tính luyến ái. Người ta thấy có
những gia đình, qua mấy thế hệ không có ai là người đồng tính nhưng
bỗng dưng xuất hiện một chú “gà cồ” lạ hoắc không chịu cất tiếng
gáy. Người ta cũng thấy có gia đình hoặc vợ hoặc chồng là người
đồng tính nhưng con cái của họ sinh ra giới tính lại rất rõ ràng.
Qua
các cuộc thử nghiệm tự nguyện, người ta tiêm hooc môn nam cho người
đồng tính nam, hooc môn nữ cho người đồng tính nữ thì kết quả trái
với mong muốn: Họ (người đồng tính) không thay đổi khuynh hướng tính
dục, trái lại càng kích thích sự “thèm khát gần gũi” với người
đồng giới nhiều hơn, mạnh hơn. (theo Elisabeth Badinter). Điều đó
khẳng định gen, hooc môn không phải là nguyên nhân gây ra đồng tính
luyến ái ở con người. Điều đó cũng khẳng định: Đồng tính luyến ái
không mang tính di truyền.
Vậy
nguyên nhân nào dẫn tới chuyện người đàn ông yêu người đàn ông, người
đàn bà yêu người đàn bà? Câu trả lời vẫn lửng lơ, bỏ ngỏ vì cho
đến tận giờ này các nhà khoa học vẫn chưa tìm ra câu trả lời thống
nhất. Chúng ta tạm bằng lòng với cách giải thích của bác sỹ Kensey,
người Mỹ, mặc dù cách giải thích của ông vẫn còn khá chung chung:
Có sự biến đổi nhỏ nào đó ở bán cầu đại não đã ảnh hưởng tới
thiên hướng tình dục. Ông cho rằng, đa số nhân loại có khuynh hướng
tình dục đồng tính nhưng để thành người có hành động đồng tính,
tức người đồng tính, phụ thuộc vào hai yếu tố: Khuynh hướng tình
dục đồng tính nặng hay nhẹ và tác động của môi trường gia đình, xã
hội tới cá thể đó như thế nào. Quan điểm của ông khá gần với quan
điểm của Peopper Schwartz và Dominic Cappello trong tác phẩm MƯỜI
CUỘC NÓI CHUYỆN (Nguyễn Thị Hương Giang dịch - Nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin, 2006): “Trên thực tế, có một số lượng lớn đàn ông và đàn
bà phát hiện ra rằng mình bị những người đồng giới thu hút, họ có
thể là bạn bè hoặc là những người quen chứ không phải là người
khác giới. Họ chẳng bao giờ hé miệng cho bạn bè hay ngay cả cho bản
thân họ biết đâu.” (trang 235). Như vậy, khuynh hướng đồng tính mặc dù
ở con số khá cao nhưng may thay, nhờ có văn hóa truyền thống, với
những chuẩn tắc khắt khe về giới tính và đạo đức mà hành động
đồng tính không trở nên phổ biến.
Đồng
tính luyến ái tồn tại từ xa xưa và có ở mọi tầng lớp trong xã
hội, nhưng người ta thường thấy tỷ lệ người đồng tính cao ở giới
nghệ sỹ, kinh doanh, chính trị... Thực ra, tỷ lệ người đồng tính ở
các giới như nhau, nhưng nhóm người trên do họ là những người hoặc
thành đạt, hoặc là người của công chúng nên đời tư của họ dễ bị để
ý, “khai thác”, chính vì thế mà mọi người mới ngộ nhận về nhóm
người này có tỷ lệ đồng tính cao hơn các nhóm khác.
Câu
chuyện về nam ca sỹ Quang Dũng chúng tôi trích dẫn dưới đây không ám
chỉ anh là người đồng tính mà chỉ lưu ý điều: Người thành đạt,
nhất là khi lại là người của công chúng, thường “được” dư luận “quan
tâm thái quá” đến cuộc sống riêng tư, mà sự “quan tâm” ấy, đôi khi vô
tình đã hủy hoại tương lai của một con người:
Ca
sỹ Quang Dũng nổi tiếng nhờ hát nhạc Trịnh đã làm dư luận “rối tung
rối mù” về lối sống “lạ hoắc” của mình. Người ta không chỉ “chửi”
anh là “chảnh bà cố nội”, là “bon chen”, là “tàn nhẫn” mà còn xì
xèo, bàn tán về khuynh hướng tình dục của anh rất “lập dị”, “khác
người”.... Không ít chuyện “đồn thổi” ác ý làm Quang Dũng mất niềm
tin vào cuộc sống và luôn trong tâm trạng chán nản. Khi được hỏi: “-
Gần đây có lời đồn anh liên quan đến một vụ scandal về giới tính với
một cậu bé ở Hải Phòng không phải là chuyện tiếu lâm chứ? Tất nhiên
anh có thể không nhận!”. Quang Dũng thốt lên cay đắng: “- Sao cuộc sống
lại nặng nề đến vậy? Có lúc tôi không biết giải quyết mọi việc thế
nào, tôi đều tự hỏi mình đó có phải là sự trả giá khi tôi theo
nghiệp ca hát hay không nữa? Trong thời gian đấy bạn bè thân họ cũng
hiểu sai về tôi, đồng nghiệp thì nhìn tôi với ánh mắt ngồ ngộ, tôi
chẳng biết phải giải thích với họ thế nào, đành im lặng! (Nghĩa
Lương - Người đẹp Việt Nam số 158 ngày 15/10/2005). Là người của công
chúng nên “lời đồn” ác ý ấy dù đúng hay sai cũng làm cho hình ảnh
của Quang Dũng bị hoen mờ.
Trong
tác phẩm MỘT THẾ GIỚI KHÔNG CÓ ĐÀN BÀ, nhà văn Bùi Anh Tấn miêu tả
khá thành công tâm lý nhân vật Nguyễn Thành Trung khi phát hiện mình
là người đồng tính. Là một sĩ quan trẻ, đẹp trai, tài giỏi, được
nhiều người yêu mến, lại sinh trưởng trong một gia đình gia giáo nên
anh rất ghê tởm những “gã pê đê bệnh hoạn”, luôn tìm cơ hội để mạt
sát, thẳng tay đánh đập những “gã pê đê bệnh hoạn” không thương tiếc.
Tại sao Nguyễn Thành Trung làm vậy khi trong anh có “thứ tình cảm
khác lạ” đó từ thủa học trò? Nguyễn Thành Trung làm vậy để trốn
chạy con người thực của mình, để khẳng định mình là thằng đàn ông
đích thực. Nguyễn Thành Trung sẽ làm được điều đó nếu không có buổi
tối định mệnh ở quán cafe của những “gã pê đê bệnh hoạn”: Khuôn mặt
đẹp trai, ga lăng nhưng đậm đặc chất đàn ông và giọng nói du dương,
trầm bổng của Hoàng “hoàng tử” đã làm anh chao đảo... Sau những dằn
vặt, những “đấu tranh tư tưởng”, anh đã tự tìm đến với Hoàng “hoàng
tử” và lao vào cuộc tình đồng giới với tất cả sự khao khát bị dồn
nén lâu ngày. Những giằng xé, những đấu tranh tư tưởng của Nguyễn
Thành Trung được Bùi Anh Tấn mổ xẻ, phân tích và dẫn giải khá sâu
sắc, và có lẽ với những kiến giải của mình, nhà văn (đồng tính)
Bùi Anh Tấn đã giúp đọc giả nhìn nhận vấn đề đồng tính luyến ái
bằng ánh nhìn nhân văn và con người hơn.
Công
bằng mà nói, người đồng tính là những người chịu nhiều thua thiệt,
đau khổ trong cuộc sống. Trong con mắt mọi người, dù người đồng tính
có tài giỏi, tử tế đến đâu, có ích cho gia đình và xã hội thế nào
thì họ vẫn cứ là “kẻ biến thái”, “lập dị”, bị tránh xa vì “kinh
tởm”. Một ông tổng thống, một nhà bác học hoặc một nhà thơ, một
nhạc sỹ thiên tài... nếu đã “bị” là người đồng tính thì dù có vắt
kiệt tài năng, trí tuệ để cống hiến cho nhân loại vẫn cứ phải đương
đầu với sự ghẻ lạnh, “khinh rẻ” của người đời. Một kẻ giết người,
một tên ăn trộm, một gã lừa đảo... nhiều khi lại được “xã hội” “tôn
trọng” hơn nhiều những người đồng tính. Đấy chính là sự nghịch lý,
là bất công của xã hội dành cho người đồng tính mà người đồng tính
khó đủ sức để vượt qua.
Thực
ra người đồng tính không bao giờ muốn họ là người như vậy. Họ rất
đau khổ vì sự “chẳng giống ai” của mình. Họ cố gắng chống lại sự
trớ trêu của tạo hóa nhưng họ càng cố thì hình như họ càng bất
lực. Sự kỳ thị của gia đình, xã hội không giúp họ sửa đổi được sự
“sai lệch” về khuynh hướng tình dục (dù ít dù nhiều), mà còn làm
cho họ có thái độ bất cần đời, “hăng hái” hơn trong việc thể hiện
bản thân và lôi kéo những người đồng cảnh.
Khi
được hỏi: Nếu phát hiện ra người thân của mình là người đồng tính
bạn sẽ làm gì? Đa số trả lời sẽ khuyên giải để người thân có đời
sống tình dục bình thường. Nếu khuyên giải không được sẽ “cưỡng chế”
bằng nhiều hình thức, miễn sao người thân của mình thoát khỏi sự
“căn bệnh nhơ nhuốc” đó.
Các
nhà khoa học khuyến cáo: Muốn người thân của mình điều chỉnh được
sự sai lệch về đối tượng tình dục (thực ra là rất khó, là không
thể), trước hết phải bình tĩnh, tìm hiểu xem người thân của mình
“bị” đồng tính ở mức độ nào để có biện pháp cụ thể. Dù người
thân “bị" đồng tính "nhẹ" hay "nặng" thì đều
phải mềm mỏng, tâm lý và thật sự kiên trì. Không nên biểu hiện sự lo
lắng, đau khổ cho người thân của mình biết. Tuyệt đối không làm tổn
thương tới lòng tự trọng của họ, ví như: Nói cho người khác biết,
sỉ nhục, đánh đập,... càng làm cho họ có những phản ứng tiêu cực:
Công khai khuynh hướng tình dục của mình, bỏ nhà ra đi, tìm đến với
cái chết...
Khi
thực hiện đề tài này, chúng tôi hỏi những người đồng tính 3 câu
hỏi:
1.
Gia đình phản ứng thế nào khi biết bạn là người đồng tính?
2.
Sự lo lắng của người thân ảnh hưởng thế nào tới khuynh hướng tình
dục của bạn?
3.
Tỷ lệ người đồng tính từ bỏ được quan hệ đồng tính là bao nhiêu sau
khi được sự “quan tâm” của gia đình?
Chúng
tôi hy vọng những câu trả lời của họ sẽ giúp ích cho bạn trong việc
“khuyên giải” người thân của mình, nếu chẳng may người thân là người
đồng tính, có tác dụng tích cực hơn.
Với
câu hỏi 1: 10 % trả lời người thân của họ không có phản ứng gì. 20%
trả lời người thân của họ đau khổ nhưng khuyên họ phải từ bỏ “căn
bệnh đua đòi” vì danh dự bản thân và gia đình. 70% trả lời người thân
của họ rất bực tức, kinh tởm khi biết họ là người đồng tính nên đã
cấm đoán, miệt thị, đánh đập họ... bắt họ phải “từ bỏ bệnh xấu
hổ” nếu không sẽ “từ mặt”, đuổi ra khỏi nhà.
Với
câu hỏi 2: 80% trả lời cảm thấy xấu hổ, “nhục nhã”, quyết tâm “thay
đổi” khuynh hướng tình dục của mình nhưng rất tiếc không làm được.
10% không trả lời. 10% còn lại thì lao vào các mối quan hệ đồng tính
công khai hơn, mạnh mẽ hơn.
Với
câu hỏi 3: 15% trả lời không biết vì chưa gặp những trường hợp như
thế. 35% trả lời đã gặp nhưng số lượng không nhiều nên không thể biết
được tỷ lệ là bao nhiêu. 50% còn lại thì không tin người đồng tính
sẽ quay sang quan hệ dị tính được vì họ đã từng gặp những người
quyết tâm từ bỏ tình dục đồng tính nhưng thời gian gian quay lại quan
hệ đồng tính cũng không lâu.
Chúng
ta thừa nhận, xã hội hiện đại tuy có thay đổi đôi chút khi nhìn nhận
về vấn đề đồng tính nhưng thái độ “kinh tởm” sự đồng tính có lẽ
sẽ bất biến theo thời gian. Người đồng tính vẫn cứ mãi là số đơn
lẻ “lạc loài” trong sự kỳ thị của số đông nhân loại. Xét về mặt
tích cực, sự “sợ hãi và kinh tởm” chuyện đồng tính có giá trị rất
lớn trong việc củng cố và bảo vệ tính nam của người đàn ông, góp
phần thúc đẩy xã hội phát triển theo chiều hướng tích cực.
Ngoại
trừ những người đồng tính sống sa đọa, bất cần đời; ngoại trừ
những kẻ lợi dụng chuyện đồng tính làm băng hoại văn hóa truyền
thống và nền tảng đạo đức thì những người đồng tính đều cần nhận
được sự cảm thông từ gia đình, xã hội bằng thái độ khách quan, độ
lượng. Sự kỳ thị của xã hội với người đồng tính không giúp họ
“thay đổi” được khuynh hướng tính dục, trái lại càng làm cho họ bất
mãn, mặc cảm và nảy sinh tư tưởng “nổi loạn”, dẫn đến những hệ lụy
đau lòng.
Bất
luận người đồng tính là ai? Mức độ đồng tính như thế nào? Thì
người đồng tính đương nhiên phải chấp nhận: Chừng nào xã hội hiện
đại chưa thật sự nghiêm túc tiến hành nhân dạng người đàn ông thì
chứng đó, người đồng tính nam nói riêng, người đồng tính nói chung
còn bị coi là “quái vật”, “lập dị”, “cản trở” sự phát triển của
loài người. Đấy là thách thức lớn mà người đồng tính khó có thể
vượt qua.
Hỡi chàng trai của thế kỷ XXI!
Nếu
chẳng may chàng là người đồng tính, xin đừng bi quan, chán nản. Hãy
tâm niệm nằm lòng: “Muốn phát triển thành người đàn ông là một cuộc
đấu tranh không ngừng ở mọi lúc.”. Hãy quyết tâm sửa chữa những
“trục trặc” do tạo hóa gây ra để “ngạo nghễ” khẳng định tố chất đàn
ông đích thực của mình. Nếu mọi cố gắng vẫn vô vọng thì lúc bấy
giờ hãy nhìn thẳng vào sự thật con người mình mà điều chỉnh lối
sống sao cho phù hợp, tốt cho mình nhất.
Cuộc
sống chỉ tốt đẹp, hữu ích và đáng yêu hơn khi ta sống lành mạnh,
lạc quan và trân trọng giá trị của cuộc đời.
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Hà Nội ngày 28.5.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét