Ai hoài cổ hơn ai? Bài viết Phạm Đức Nhì (Galveston, Texas)
Thứ Hai, 25 tháng 5, 2015
Khoảng cuối năm 2011, một người bạn văn
chương ở trong nước gởi cho tôi 4 bài thơ kèm theo một câu hỏi như kiểu đánh
đố: “Ai hoài cổ hơn ai?” Tôi hiểu ý anh bạn, nhưng theo tôi, cách đặt vấn đề
của anh không được chính xác lắm. Với một người thích đọc thơ và thỉnh thoảng
cũng làm thơ như tôi, câu hỏi đó phải là: “Trong 4 bài thơ thể hiện tâm tình
hoài cổ, bài thơ nào hay hơn? Hoặc tài thơ của tác giả nào cao hơn?”
Tác
giả Phạm Đức Nhì
Quê quán: Việt Nam
Hiện định cư tại Galveston, Texas
Quê quán: Việt Nam
Hiện định cư tại Galveston, Texas
Email: nhidpham@gmail.com
_____
_____
AI HOÀI CỔ HƠN AI?
Khoảng cuối năm 2011, một người bạn văn chương ở trong nước gởi cho tôi 4 bài thơ kèm theo một câu hỏi như kiểu đánh đố: “Ai hoài cổ hơn ai?” Tôi hiểu ý anh bạn, nhưng theo tôi, cách đặt vấn đề của anh không được chính xác lắm. Với một người thích đọc thơ và thỉnh thoảng cũng làm thơ như tôi, câu hỏi đó phải là: “Trong 4 bài thơ thể hiện tâm tình hoài cổ, bài thơ nào hay hơn? Hoặc tài thơ của tác giả nào cao hơn?”
Đến
khi tra cứu để bình bài thơ Sông Lấp tôi lại đọc được bài Về Bài Thơ Sông Lấp
Của Tú Xương (1) của Vũ Bình Lục, trong đó tác giả cho rằng: “… Tú Xương
và Nguyễn Khuyến, căn cốt vẫn là những nhà thơ trữ tình đặc sắc của dân tộc.
Phải nói thêm là cả hai cụ, đều trữ tình ngay cả trong trào phúng và ngược lại.
Riêng về thơ, về tài thơ thì tôi cũng muốn xếp cụ Tú Xương cao hơn một tí. Cụ
Nguyễn Khuyến kinh điển hơn, uyên bác hơn, nhưng đó lại chính là chỗ gây khó
cho nhà thơ nổi tiếng này.”
Với
tôi, thi sĩ, ngay cả trong cùng một loại thơ, như thơ trữ tình chẳng hạn, không
phải lúc nào cũng sáng tác đều tay như một cỗ máy sản xuất một món hàng công
nghệ. Có khi cao hứng, chữ nghĩa, ý tứ từ trên trời rơi xuống, viết được bài
thơ rất hay. Nhưng cũng có khi, bài thơ viết ra chỉ muốn vứt vào sọt rác, hoặc
giả đem trình làng, thì chỉ như viên sỏi vứt xuống biển, chẳng thấy tăm hơi gì
cả.
Có
thi sĩ chỉ viết có vài bài mà nổi danh, nhưng cũng có người in hết tập này đến
tập khác mà khi xưng tên thì chả ai biết ngài là ai cả. Bởi vậy, tôi không dám
dùng phương cách đem “gia tài thơ” của cả hai thi sĩ đặt lên bàn cân rồi kết
luận ai tài hơn ai. Công việc ấy không phải là không làm được, nhưng phải cần
một ê-kíp những nhà phê bình văn học có tài, phải ra công tra cứu ngọn ngành,
phân tích chi li, kỹ lưỡng, phải có óc tổng hợp, phải cân nhắc đủ chiều, đủ
mặt. Mà dù có làm được việc ấy, kết luận đưa ra vẫn còn đầy tính chủ quan, còn
gây nhiều tranh cãi.
Thôi
thì “mèo bé bắt chuột con”, thỉnh thoảng tôi chỉ dám đem bài thơ này so sánh
với bài thơ kia (nhưng chỉ giới hạn scope của việc so sánh vào một đặc điểm nào
đó thôi). Theo tôi, nếu chọn hai bài thơ thuộc loại “những con tương cận”,
nghĩa là có chung một đặc điểm nào đó (chung một đề tài, chung một thủ pháp
nghệ thuật…) thì việc so sánh sẽ dễ hơn. Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác và Cảm
Hoài của Đặng Dung là “những con tương cận” vì có chung một đề tài, một tâm sự;
đó là hào khí của một sĩ phu trước cảnh nước nhà nguy biến. Dĩ nhiên, khi so sánh,
có người coi trọng cách dùng chữ, có người coi trọng cái thâm trầm, sâu sắc,
người khác lại thích cái hào sảng, phóng khoáng, hơi thơ nóng bỏng, dòng chảy
cuồn cuộn như thác đổ. Và từ đó họ có sự đánh giá cao thấp khác nhau.
Trong
tinh thần đó tôi thấy việc tìm câu trả lời cho câu hỏi của anh bạn về 4 bài thơ
là khả thi, là tương đối dễ dàng. Bốn bài thơ đó là:
- Nhớ
Quy Nhơn của Vương Linh.
- Thăng
Long Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan.
- Ông Đồ của Vũ Đình Liên.
- Sông
Lấp của Tú Xương.
Hoài
cổ là nhớ thương, tiếc nuối một thời đã qua. Như vậy, Nhớ Quy Nhơn, đúng ra, là
tâm tình hoài hương chứ không hẳn là hoài cổ. Dĩ nhiên, trong hoài hương đã ẩn
chứa hoài cổ (Nhớ Quy Nhơn là nhớ cả cái thời gian mình đã sống ở Quy Nhơn);
tuy nhiên, ở đây khung trời quê hương mới chính là tâm điểm của bài thơ. Ba bài
còn lại thì đúng là hoài cổ; nhớ thương, tiếc nuối đều xoáy vào “một thời đã
mất”.
NHỚ QUY NHƠN (2)
Không
đủ ban ngày để nhớ nhau
Tối
nằm chợp mắt đã chiêm bao
Nửa
đêm trở dậy hương rừng thoảng
Tương
biển Quy Nhơn gió thổi vào.
(Vương
Linh, 1921-1992)
Không
rõ trước khi rời quê hương miền trung, tập kết ra bắc (1954), chàng thanh niên
Lê Công Đao (Vương Linh) có được đọc và học thơ Trần Tế Xương không, chứ đọc
Nhớ Quy Nhơn của ông tôi thấy rất đậm mùi … Sông Lấp. Tuy không sử dụng phép ẩn
dụ, Nhớ Quy Nhơn cũng dùng cách bày tỏ, diễn tả chứ không kể lể, biện giải dài
dòng (show, not tell), cũng ngửi cái này, tưởng cái kia. Riêng mức độ tài năng
thì cao thấp rất rõ nét. Thôi thì cứ cho hoàn toàn là do tình cờ mà hai bài thơ
có hơi hướm giống nhau, chỉ riêng thủ pháp “show, not tell” đã cho người đọc
thấy rõ sự “không khéo” của Vương Linh. Trước hết, thay vì dùng hình ảnh khác
để người đọc liên tưởng đến Quy Nhơn thì Vương Linh lại bí bách đến độ ôm hai
chữ Quy Nhơn, rất vụng về, nhét vào câu thứ tư:
Tưởng
biển Quy Nhơn gió thổi vào
Rồi cái tựa Nhớ Quy Nhơn của bài thơ thì lại
“lạy ông tôi ở bụi này”, khiến cái phương cách “show, not tell” trở thành
“half-show, half- tell”, nửa đời, nửa đoạn.
Nhớ
Quy Nhơn đưọc chọn đăng trong tập Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình và được
Nguyễn Bùi Vợi khá mạnh miệng ngợi khen.(2)
Với
tôi, giá trị nghệ thuật của Nhớ Quy Nhơn chỉ ở mức trung bình. Không kể cái
“tội” na ná vóc dáng của Sông Lấp, mà chỉ riêng cái thủ pháp “half-show,
half-tell” nửa đời, nửa đoạn cũng đủ xếp bài thơ ở cuối bảng trong số 4 bài thơ
mà tôi được “yêu cầu” bình phẩm.
Với
Nhớ Quy Nhơn của Vương Linh ở hạng tư, vị trí hạng ba sẽ dành cho Thăng Long
Thành Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan (3). Lý do: TLTHC là một bài thơ Đường
luật hay, ngôn ngữ sang cả, cảm xúc dạt dào nhưng có hai khuyết điểm mang tính
thời đại là hình ảnh khuôn sáo và thể thơ gò bó.
Còn
Ông Đồ (4) và Sông Lấp (5) đều là tuyệt tác, đều có những “tuyệt chiêu” trong
thơ ca. Việc chọn lựa vị trí hạng nhì và hạng nhất cũng làm tôi có một chút đắn
đo, suy nghĩ. Sau đây là một vài điểm so sánh, cân nhắc:
Cả
hai đều áp dụng thủ pháp “show, not tell” thành công.
Cả
hai đều có phép ẩn dụ hoàn hảo, kín kẽ (không sơ hở); tuy nhiên, phép ẩn dụ của
Sông Lấp tài tình hơn, sâu kín hơn.
Tứ
thơ của cả hai bài đều mạch lạc; cảm xúc, hình ảnh tuôn chảy theo một trình tự
hợp lý.
Trận
địa chữ nghĩa của Ông Đồ lớn hơn, bề thế hơn; nhưng câu chữ, âm thanh, hình
ảnh, cảm xúc của Sông Lấp được xếp đặt, nối kết như một thế trận chặt chẽ hơn.
Ông
Đồ có “tuyệt chiêu” thi hóa thân thành họa; Sông Lấp không có.
“Tuyệt
chiêu” thi hóa thân thành họa của Ông Đồ không hoàn hảo; bức tranh thứ năm vẫn
cồm cộm chữ nghĩa.
Sông
Lấp không có hội chứng nhàm chán vần; vị ngọt thơ ca của Ông Đồ hơi đậm.
Dựa
vào những phân tích trên đây, tôi, với cái nhìn chủ quan của mình, chọn Sông
Lấp vào vị trí hạng nhất. Như vậy, thứ tự (từ cao xuống thấp) của 4 bài như
sau: Sông
Lấp/ Ông Đồ/ Thăng Long Thành Hoài Cổ/ Nhớ Quy Nhơn.
Nếu
có ai trong số người đọc có cái nhìn khác, nhận định khác, cách xếp hạng khác
xin e-mail cho tôi biết. Tôi sẽ thêm vào phần “ý kiến bạn đọc”.
Rất
mong nhận được chỉ điểm, bổ khuyết, phê bình của những người yêu thơ.
Galveston, đầu năm 2014
----
Chú thích
(1) lethieunhon.com
(2) Thơ Việt Nam Thế Kỷ XX, Thơ Trữ Tình, Nhà
xuất bản Giáo Dục 2004, trang 418.
(3) Xin xem thêm Đọc Thăng Long Thành Hoài Cổ
Nghĩ Về Vị Trí Của Thơ Đường Luật (t-van.net)
(4) Xin xem thêm Ông Đồ: Những Bức Tranh Thơ.
(t-van.net)
(5) Xin xem thêm Sông Lấp: Một Bài Thơ Toàn
Bích (t-van.net)
----
©
Tác giả giữ bản quyền.
Cập
nhật theo nguyên bản của tác giả gửi từ Galveston, Texas ngày 25.5.2015
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét