Phong tục tết của người dân Nam Bộ xưa – Bài viết Kha Tiệm Ly
Thứ Tư, 18 tháng 2, 2015
Nguyên Đán là ngày Tết truyền thống thiêng liêng và trọng đại của dân tộc; vì thế để đón chào một năm mới, người dân khắp nơi đều chuẩn bị chu đáo. Ở mỗi miền đều có tập quán riêng, tuy nhiên xét về tổng thể thì không khác nhau mấy. Trong bài nầy chúng tôi chỉ nói về phong tục “ăn Tết” của người dân Nam Bộ ngày xưa.
Thông
tin liên hệ: (VanDanViet)
Tác giả Kha Tiệm Ly
Tên thật: Thái Quốc Tế
Địa chỉ: 99/5 Đinh Bộ Lĩnh, P2, TP Mỹ Tho, Tiền Giang
ĐT: a/. 0987 701 952 - b/. 01229 880 310
Email: khatiemly@gmail.com
_____
Tên thật: Thái Quốc Tế
Địa chỉ: 99/5 Đinh Bộ Lĩnh, P2, TP Mỹ Tho, Tiền Giang
ĐT: a/. 0987 701 952 - b/. 01229 880 310
Email: khatiemly@gmail.com
_____
Nguyên
Đán là ngày Tết truyền thống thiêng liêng và trọng đại của dân tộc; vì thế để
đón chào một năm mới, người dân khắp nơi đều chuẩn bị chu đáo. Ở
mỗi miền đều có tập quán riêng, tuy nhiên xét về tổng thể thì không khác nhau
mấy. Trong bài nầy chúng tôi chỉ nói về phong tục “ăn Tết” của người dân
Nam Bộ ngày xưa.
Từ
đầu tháng chạp, cũng là lúc gặt hái xong, nhà nhà đều nao nức chuẩn bị đón mừng
năm mới, mà tiếng quết bánh phồng rộn rã là âm thanh báo hiệu đầu tiên;
tiếp theo đó là chuối sứ ép phơi khô. Trước kia ở nông thôn bánh mứt từ
tỉnh thành về rất hiếm hoi, vả lại người dân thời ấy cũng rất rảnh
rang sau vụ lúa (mỗi năm chỉ có một mùa lúa 6 tháng) nên dư thì giờ chuẩn bị
đãi khách bằng cây nhà lá vườn, môt mặt là tiết kiêm, một mặt là để các chị khoe
tài gia chánh của mình: Bánh phồng nướng và mứt chuối là hai “đặc sản” không
thể thiếu của mọi nhà thời ấy. Phần các anh thì nhà cửa cũng bắt đầu dọn dẹp
ngăn nắp, sơn phết từ từ; nếu có cây mai trước cửa thì phải lặt sạch lá,
và canh làm sao cho đến mồng một thì hoa phải nở rộ. Đến sáng ngày hăm ba
đến hăm lăm âm lịch thì tất cả phải tươm tất, nhất là bàn thờ tổ tiên phải coi
rôm rả, đẹp mắt với bộ lư đồng được chùi sáng loáng, mâm ngũ quả phải đầy
ắp, lọ hoa tươi rói và không thể thiếu một nhành mai.
Cũng từ hai mươi đến hăm lăm
tháng chạp (ít khi trễ hơn), mọi người đi tảo mộ ông bà. Những gia đình có đất
rộng thì ông bà được nằm ở một nơi nào đó ngay
trong mảnh vườn hay thửa ruộng của mình; còn những người ít đất thì ông bà
được nằm ở chòm mả chung (không gọi là nghĩa địa). Cũng nên nói thêm, trước khi
quét mộ, mọi người đều phải đem nhang đèn, giấy tiền vàng bạc, trà hay chút
rượu thịt đặt trước mộ mà khấn vái để xin phép, vì vô duyên vô cớ mà “động mồ
động mả” là điều tối kỵ. Quét mộ xong, người ta phải dằn trên mộ một ít giấy
tiền vàng bạc; đây là dấu hiệu để báo với tốp người “chạp mả” biết là mộ nầy đã
được quét rồi, (Thực tế mả chưa quét và quét rồi rất dễ dàng phân biệt, nhưng
việc làm nầy là do thói quen). “Chạp mả” theo nghĩa được giải thích của bà con
là “quét mả từ thiện vào tháng chạp”. Trong những ngày nầy, vì nhiều lý do mà
có những mấm mộ không được người nhà chăm sóc (có mả bị bỏ hoang từ năm nầy qua
năm khác), thì những thanh niên trong làng, sẵn cuốc xẻng đó, họ … “chạp mả”
luôn! Dù là nghĩa cử từ thiện, nhưng trước khi “chạp mả”, họ cũng không quên
thắp vài nén hương cung kính khấn vái người quá cố. Đây là một việc làm rất
đáng trân trọng và vẫn còn cho tới ngày nay.
Ngày
hăm ba là ngày đưa ông Táo và chư thiên về trời, cũng là ngày đánh dấu Tết đã
cận kề. Lễ vật không thể thiếu để đưa ông Táo là chè, tốt nhất là chè trôi nước
(sau nầy là thèo lèo, bánh in) Theo bà con giải thích thì ông Táo thích ăn
ngọt, hơn nữa là để lúc tâu lên Ngọc Hoàng Thượng Đế, ông luôn nhớ mà nói tốt cho
chủ nhà vì vị ngọt còn thừa lại ở lưỡi môi nhắc nhở; có người còn cẩn thận trét
chút nước đường ở miệng ông Táo trong bộ hình nhân “ cò bay ngựa chạy”
(!). Chè trôi nước cũng không ngoài mục đích mong muốn mọi việc ông Táo tâu rỗi
đều trôi chảy như dòng nước (!). Sau ngày đưa ông Táo, bàn thờ ông Táo và “ông
Thiên” không được thắp nhang, vì không muốn cho quý ngài bận bịu nhớ về hạ giới
trong lúc ở thiên đình!
Chiều
hăm chin Tết là mọi việc chuẩn bị phải hoàn tất để sáng hôm sau làm lễ rước ông
bà. Nhìn bàn thờ tổ tiên, người ta có thể đánh giá được thành bại của gia chủ
trong năm qua. Nhưng dù thế nào, trên bàn thờ cũng phải có dĩa trái cây
ngũ quả; hồi trước ngũ quả là cam, quýt, bưởi, dừa, xoài với ý nghĩa tượng
trưng sự sung mãn tròn đầy theo hình dáng chúng. Sau nầy vì kiêng cử âm gọi ,
nên bà con bỏ cam (cam phận nghèo), quýt (húyt háy), bưởi (bưởi bồng) nên có
đổi khác hơn; là mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, sung, tượng trưng theo tên phát âm
Nam Bộ của nó : “cầu vừa đủ xài sung”. Có người thay trái sung bằng trái thơm:
thơm tho; trái bắp: đều đặn và … “chắc ăn như bắp”. Một cặp “dưa nhứt”, tức dưa
hấu loại to nhứt được dán giấy hồng đơn nằm trang trọng hai bên (bàn thờ) tượng
trưng cho sự no đầy và nhành mai ở bình hoa tượng trưng cho sự may mắn, dường như
nhà nào cũng có.
Sáng
ba mươi là lễ rước ông bà đồng thời rước ông Táo và chư thiên về ăn Tết với gia
đình. Mọi nơi thờ phụng như Ông Táo, Long thần Thổ Địa, Thần Tài, Ông Thiên,
Phật, thì đơn sơ với bánh tét, hoa quả, khói hương nghi ngút. Riêng hai mâm cơm
dành cho cửu huyền thất tổ và đất đai thì thịnh soạn hơn tùy theo khả năng của
gia chủ, nhưng không thể thiếu tô cơm, bánh tét tượng trưng cho sự no đủ, mùa
màng đắc lợi; dưa hấu tượng trưng cho sự viên mãn, may mắn; bánh phồng tượng
trưng cho sự phát triển dồi dào (“phồng” ra); và chủ yếu vẫn là thịt kho tàu,
tượng trưng cho sự vuông tròn (vuông của thịt, tròn của trứng). Mâm cửu
huyền được dọn sáu chén, sáu đôi đũa; bàn đất đai thì năm (không hiểu sao). Mọi
nhà cũng không quên dành một mâm đặt ở ngoài sân để dành cho những kẻ xiêu mồ
lạc mả, vị quốc vong thân, hay những tiền nhân khai sơn phá thạch. Đặc biệt mâm
nầy phải có chén muối, chén gạo; cúng xong thì đem rải bốn phương. Cùng lúc,
giấy hồng đơn (cắt từng miếng vuông nhỏ đều nhau) được dán ở cột nhà, cửa tủ,
cửa ngõ và cây trái quanh vườn để cho mọi việc sang năm đều thuận lợi.
Cuối
cùng thì ông bà, cha mẹ dặn dò con cháu những điều cần thiết và những
kiêng kỵ vào những ngày đầu xuân như tiền bạc và quần áo phải lấy sẵn ra ngoài,
vì mồng một mà mở tủ lấy tiền là điều “không nên” (suốt năm tiền cứ
ra mà không vô); con cháu không được gây gỗ (năm mới sẽ gây gỗ hoài); với ly
tách, chén đũa, nhất là gương soi mặt, cầm nắm cũng phải cẩn thận, không được
vuột tay đổ bể (vì chuyện làm ăn sang năm sẽ bị đổ vỡ), trẻ em không được làm
gì phạm lỗi để bị đánh đòn (suốt năm bị đánh đòn liên tục). Dù vậy, nhưng nếu
lỡ có em nào quậy phá, thì bậc trưởng thượng cũng xí xóa bỏ qua cho những
ngày đầu năm được suôn sẻ.
Chiều
ba mươi còn có tục “Tết Giếng”: Gia chủ bày một mâm lễ vật gồm bánh tét, trái
cây, trầu cau, hoa quả, nhang đèn ngay bên giếng, van vái tạ ơn … ông bà Giếng
đã cho nguồn sống. Sau đó họ múc nước cho đầy vào tất cả dụng cụ chứa nước
trong nhà đến tràn trề, rồi dán vào thành giếng một mảnh giấy hồng đơn;
điều nầy mang ý nghĩa là “không được mở nắp giếng trước ngày mùng ba để ông bà
Giếng nghỉ ngơi”: Trong ba ngày Tết mà “khai giếng” là điều đại kỵ. Song song
vào đó, ở trong nhà lu gạo, hũ đường, hũ muối, hành tỏi, đều phải đầy ăm
ắp để cho sang năm cái ăn cái ở luôn được no đầy. Tục nầy nhiều nhà vẫn còn duy
trì đến tận giờ.
Cũng
trong chiều ngày nầy, cây nêu được dựng lên trước cửa: đó là một cây tre được
tiện hết nhánh chỉ chừa một ít ở trên. Trên đầu cây tre người ta thường
treo một khánh đất, một giỏ trầu cau, một bầu rượu, một bó lá dứa hay một
nhành đa, một lá bùa bát quái để xua đuổi tà ma; những vật vừa nêu có thể
thiếu một vài món, nhưng mảnh vải vàng tượng trưng cho áo cà sa của Phật
thì không thể không có (nhiều nơi treo mảnh vải đỏ e không đúng lắm). Dựng
(thượng) nêu , theo truyền thuyết là để trừ yêu quái trong mấy ngày Tết, đến
mùng năm hay mùng bảy thì hạ nêu. Trong dân gian có câu: “Cu kêu ba tiếng cu
kêu/ Mong cho đến Tết dựng nêu ăn chè”. Có người thượng nêu vào chiều hai
mươi ba, viện lẽ ngày đó ông Táo chầu trời, nên ma quỷ thừa cơ lẻn vào nhà;
điều nầy sai với truyền thuyết: Khi yêu quái thua trí Phật, chúng phải
chạy về biển đông, và Phật cho phép chúng chỉ được về thăm tổ tiên vào ba
ngày Tết mà thôi. Trên thực tế, phần đông đồng bào cũng thượng nêu vào chiều ba
mươi.
Tục
dựng nêu là nét văn hóa đặc sắc của dân tộc, tiếc thay ngày nay còn tồn
tại rất ít ở các vùng quê.
Đến
mười hai giờ khuya gọi là “giao thừa”, tức thời điểm từ năm cũ chuyển sang năm
mới. Đây là thời điểm trọng đại; mỗi nhà đều có sẵn một mâm bánh trái, hoa quả,
nhang đèn dọn trước sân để tống cựu nghinh tân gọi là “cúng giao thừa”.
Mùng
một Tết dù có thức dậy sớm để chuẩn bị cơm canh cúng ông bà nhưng không ai mở
cửa trước mặt trời mọc vì sợ ma quỷ lẻn vào nhà. Buổi cúng cơm sáng đầu
năm xong thì cả gia đình quây quần ăn uống vui vẻ. Xong xuôi, trẻ con mặc đồ
mới “mừng tuổi” ông bà, cha mẹ; em nào cũng vẻ mặt hân hoan khi được trao
bao lì xì! Mùng hai, mùng ba ngày ba bữa cũng “dâng cơm” cho tổ tiên y như ngày
mồng một vậy. Chiều mùng hai thì mấy chị gói bánh tét để chuẩn bị ngày mùng ba
“tiễn (đưa) ông bà”.
Sáng
mùng ba nhà nhà đều “cúng gà ra mắt”. Hỏi “ra mắt” ai thì hầu hết bà con
đều … cười trừ, nói “ông bà dạy sao thì mình nghe vậy”. Sau nầy có người giải
thích là “ra mắt” ngài Việt Vương Hành Khiển, nhưng lại không dựa vào một căn
cứ nào! Đặc biệt gà cúng mùng ba là gà giò; nhưng không phải do ngài Việt
Vương Hành Khiển nào đó thích gà giò mà vì qua mấy ngày Tết mọi người đều không
còn tha thiết với mọi loại thịt nữa!
Chiều
mùng ba cũng là ngày đưa ông bà. Lễ vật gồm cơm canh như những ngày trước; đặc
biệt là những đòn bánh tét to đùng gói ngày hôm qua (có thành ngữ là “bánh
tét mùng ba”), để ông bà mang theo cho được no đủ trong suốt cuộc hành trình
vạn dặm nước sông (thời khai hoang ông bà đi bằng ghe xuồng)
Sáng
mùng bốn là lễ khai Giếng: Lễ vật y như chiều ba mươi, chủ nhà khấn vái
xin ông bà giếng phù hộ cho cả nhà đủ nước sinh hoạt suốt năm và bình an khỏe
mạnh; xong, miếng giấy hồng đơn bên thành giếng được gỡ ra, cho phép mọi người
múc nước bình thường.
Tết
Nguyên Đán là một phong tục thiêng liêng đầy màu sắc văn hóa của dân tộc. Mấy
ai đã từng xa quê mà ngày Tết không về nhà được mới thấy thấm thía
nỗi buồn nhớ quê hương, nhớ cha mẹ, họ hàng . Ngày nay, tuy những
tục lệ trong những ngày Tết có đơn giản đi nhiều, nhưng nhìn chung những nét cơ
bản thì vẫn còn tồn tại, và chúng tôi chắc rằng nó mãi mãi tồn tại theo thời
gian.
Kha Tiệm Ly © Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Mỹ Tho ngày 18.01.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét