Thơ nói hoang của Thái Quốc Mưu – Bài viết Châu Thạch
Thứ Năm, 29 tháng 1, 2015
Tự điển VN định nghĩa chữ “ngộ nghĩnh” là “lạ và khác thường”. Vậy tôi xin dùng chữ nầy để nói về một số bài thơ của nhà thơ Thái Quốc Mưu.
Thông tin cá
nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Châu
Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
Tự điển VN định
nghĩa chữ “ngộ nghĩnh” là “lạ và khác thường”. Vậy tôi xin dùng chữ nầy để nói
về một số bài thơ của nhà thơ Thái Quốc Mưu.
Tất nghiên chữ ngộ
nghĩnh không dùng như nói một đưa bé ngộ nghĩnh mà ở đây là những bài thơ ngộ
nghĩnh tức là những bài thơ có sự tinh tế và độc đáo riêng của nó. Độc đáo vì
những bài thơ nầy có một chút lập dị, một chút ngông, một chút hài hước nhưng ý
có chứa ẩn dụ cho đời suy nghiệm.
Trước hết hãy đọc
bài thơ “Bãi Biển chiều Buông”:
Bãi biển chiều buông sóng dập dồn
Cạn nguồn ta kết thử vần ôn
Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Ông to, ông nhỏ, ông…dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn.
Đọc hai câu thơ
đầu ta tưởng nhà thơ Thái Quốc Mưu là người không biết làm thơ, vì bí thế không
tìm ra từ ăn vận với chữ “dập dồn” ở câu thơ trên nên ghép đại chữ “vần ồn” vô
nghĩa vào thơ. Thường thường đó là cách làm thơ “con cóc” của những người mù
tịt về thơ. Thế nhưng đọc tiếp những vế thơ sau thì ta thấy chữ “vần ồn” mở ra
một bầu trời rộn rịp, vui vẻ của bãi biển chiều buông. “Vần ồn” từ chỗ khô cứng
trở thành cánh cửa linh hoạt cho ta bước qua một khung trời tươi vui, đã mắt.
Thế rồi hai câu
thơ tiếp:
Từng bầy xuân nữ nằm phơi rốn
Mấy đám thanh niên đứng ngắm... ồn
Có thể nói rằng
hai câu thơ nầy tác giả tả chân. Hình ảnh các cô gái thanh xuân nằm phơi nắng
hiện ra gần như lỏa lồ trước mắt chúng ta. Hình ảnh mấy đám thanh niên với cái
nhìn khả ố cũng hiện ra trước mắt chúng ta. “Ngắm... ồn” là ngắm gì? Ồn là
tiếng động thì nghe bằng tai chứ làm sao ngắm bằng mắt được. Tất nhiên người đọc
phải hiểu chữ “ngắm... ồn” theo nghĩa xấu hơn qua hình thức thêm chữ “L” trước
chữ “ồn”. Câu thơ đến đây trở thành tục và hình ảnh đến đây trở thành dục. Tuy
thế cái tục và cái dục trong thơ không làm cho chướng mắt chướng tai mà hiển
hiện ra trong trí ta một bức tranh sống động với những hình ảnh, những âm thanh
vui tai, vui mắt.
Hai câu luận của
bài thơ như sau:
Đồi núi cỏ cây chen chúc lá
Triền khe mạch suối luyến lưu hồn
Hai câu thơ nầy
tác giả tả phong cảnh trên bãi biển nhưng cố ý làm cho người đọc liên nghĩ đến
những bộ phận trên cơ thể các cô xuân nữ đang nằm “phơi rốn” kia. Cách chơi chữ
trong hai câu thơ trên làm cho hình ảnh như một bức tranh phóng tác và làm cho
hình ảnh tục mà ta liên tưởng tới không trắng trợn.
Đến hai câu kết
của bài thơ tác giả dùng cái cười chế diễu theo kiểu Hồ Xuân Hương xưa kia để
gom hết người đời vào trong cái sở thích “làm ở chỗ kín” kia:
Ông to, ông nhỏ, ông... dân giả
Nào kẻ chẳng mê thú vỗ... ồn
Lại chơi chữ
“vỗ... ồn” nữa. Chắc chắn người đọc nào cũng nghĩ rằng phải thêm một chữ “L”
trước chữ “…ồn” là đúng ý.
Thật ra tác giả
chơi chữ thật là khéo léo, không dùng cách nói ngược như nhiều người đã thường
dùng từ xưa đến nay. Chữ “ngắm... ồn” trong câu thơ trên thật ra là “ngắm cồn”.
Có thể hiểu ngầm “ngắm cồn” là ngắm các phần nhô lên trên thân thể các cô nằm
phơi nắng, còn nghĩa trắng là ngắm các đồi cát trên bãi biển chiều buông. Chữ
“vỗ... ồn” trong câu thơ dưới thật ra là “Vỗ bồn” có nghĩa là mọi người đều
thích vỗ bồm bộp trên mặt nước khi tắm trên biển hay khi ngồi tắm trong bồn.
Ngoài ra, “vỗ bồn” còn là điệu nhịp, một thú chơi tao nhã của giới của tao nhân
mặc khách. Thầy Trang Tử từng “vỗ bồn vừa ca”.
Hai chữ “ngắm...
ồn” và “vỗ... ồn” được tác giả giải thích cuối bài thơ sau khi để cho người đọc
được cười tủm tỉm trong cái vui hiếu kỳ và cười vui vẻ khi hiểu ra các chữ đánh
đố kia.
Bây giờ ta hãy đọc
tiếp một bài thơ “ngộ nghĩnh” khác của Thái Quốc Mưu:
CỘI NGUỒN
Ta vốn sinh ra ở chốn nầy
Bởi dòng kinh, đất bị chia hai
Ven bờ chằng chéo dây leo phủ
Hạt giống gieo neo giữa luống cày
Mương rạch xẻ lằn như mắc cưởi
Ranh rìa đắp cạn chẳng kiêng ai
Soi bờ lỗ mội tuông ra rả
Hôm sớm cứ lo đóng cọc hoài.
Trong bài thơ “Cội
Nguồn” tác giả tả nơi chốn mình sinh ra nhưng dòng thơ cũng khiến cho người đọc
liên tưởng cái bộ phận mà mọi người đều chui ra từ đó.
Chữ “Cội Nguồn”
mang hai ý nghĩa, một nghĩa trắng và một nghĩa đen. Nghĩa trắng chỉ gốc gác của
người là một vùng đất hoang sơ, nghĩa đen chỉ “cái chỗ” nơi mà người sinh ra nó
cũng rậm rạp như thế. Ta thấy dầu bài thơ nầy mang ý nào thì chốn “cội nguồn”
rất phì nhiêu ấy cũng đem đến cho ta sự thanh tịnh, lắng đọng trong tâm hồn và
một sự yêu mến trước hình ảnh dòng kinh, mương rạch kia. Khi hiểu theo nghĩa
trắng của bài thơ thì “Cội Nguồn” là địa phương nơi tác giả sinh ra. Nhưng, khi
hiểu theo nghĩa đen của bài thơ thì “Cội Nguồn’ là nơi mọi người từ l òng mẹ
chui ra. Tác giả cố ý tả cái phong cảnh còn hoang sơ như từ thuở hồng hoang để
ám chỉ cái chỗ mà loài người lọt ra, làm cho bài thơ không dung tục mà chan
chứa hình ảnh gắn bó thân yêu nữa.
Bây giờ xin mời
bước qua cái “Sân Tennis cũ” của tác giả:
SÂN TENNIS
CŨ
Cái sân Ten-Nít đã bao đời
Sạt lún lung tung chỗ lõm, lồi
Mấy vạch phân chia ba bốn mảnh
Đường viền đứt đoạn mấy lằn vôi
Chung quanh cỏ mọc lan tràn khắp
Một vũng nước dâng mấp mé rồi
Cây vợt nằm lỳ trên góc xó
Banh lông hai quả chẳng còn hơi.
Cái sân Tennis cũ
thì chẳng có gì đặc biệt nhưng tác giả đã lồng vào nghĩa đen của bài thơ làm
cho bài thơ trở nên có ý nghĩa và làm cho cái sân Tennis thật trở nên sinh
động. Sự loan lỗ của cái sân Tennis cũ là một sự phí phạm nơi dùng để vui chơi
của con người. Những hình ảnh miêu tả cái sân làm ta liên tưởng đến cái của
giống cái và cái của giống đực bị bỏ không thật là phí phạm.
Hai đồ vật phồn
thực của giống cái và giống đực được tác giả đem phơi bày lộ thiên được mô tả
đươi hình ảnh cái sân Tennis nên mất đi cái hình ảnh xấu khó nhìn. Cái sân
Tennis là nơi con người chơi thể thao đã bị bỏ đi hư hao nhưng qua sự diễn tả
khéo léo của tác giả, người đọc liên tưởng cái sân thành bộ phận của nữ và của
nam bị “bỏ quên” không hoạt động lâu ngày và trở nên vô dụng.
Tác giả thái Quốc
Mưu còn nhiều bài thơ như thế, những bài thơ mà tôi cho là “ngộ nghĩnh” vì nó
luôn luôn mang hai hình ảnh và một ý nghĩa. Một hình ảnh thật là hình ảnh mô tả
sự vật thật của nó. Một hình ảnh ảo được gợi lên từ hình ảnh thật khiến cho
người đọc cười tươi vui vẻ thích thú! Cả hai hình ảnh đều hàm chứa một ý nghĩa
trong lẽ sống ở đời. Đa số những bài thơ loại nầy tác giả không dùng từ ngữ
nặng nề. không dùng hình ảnh thô tục trắng trợn nhưng vẫn đem đến cho người đọc
nụ cười hóm hỉnh.
Tất nhiên các nhà
thơ làm thơ theo kiểu “nói hoang” như thế ít nhiều gì cũng chịu ảnh hưởng của
thơ Hồ xuân Hương. Tuy nhiên Thái Quốc Mưu không rập khuôn theo phong cách xưa
cũ mà riêng ông tạo được cho mình một sắc thái mới.
Thơ “nói hoang”
của Thái Quốc Mưu có hình ảnh không lộ liểu phản cảm, có nụ cười dí dỏm nhẹ
nhàng, như cách nói đùa lý thú của các bậc túc nho uyên thâm thời xưa vậy.
Châu Thạch
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Nẵng ngày 29.01.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet.Net Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét