Nguyễn Lương Vỵ: Vấn nạn của cái “Being” – Bài viết Trịnh Y Thư (USA)
Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015
Có thể nói những bài thơ trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (xuất bản cuối năm 2014) là những biến tấu liên miên bất tận của cái “Being”.
Being chứ không phải đời sống như chúng ta thường hiểu. Bạn có thể gọi nó là kiếp nhân sinh, kiếp người, đời sống, hữu thể, hiện tồn, hiện hữu, hiện sinh, hiện tính, thể tính, hoặc cả chục từ ngữ khác tương tự.
Thông tin cá
nhân: (VanDanViet)
Nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ
Tên thật Nguyễn Lương Vỵ
Sinh năm
1952 ở Quán Rường, Tam Kỳ, Quảng Nam
Hiện định cư
tại Mỹ
Email: luongvynguyen2@gmail.com
_____
Có thể nói những
bài thơ trong tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu
của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (xuất bản cuối năm 2014) là những biến tấu liên
miên bất tận của cái “Being”.
Being chứ không phải đời sống như chúng
ta thường hiểu. Bạn có thể gọi nó là kiếp nhân sinh, kiếp người, đời sống, hữu
thể, hiện tồn, hiện hữu, hiện sinh, hiện tính, thể tính, hoặc cả chục từ ngữ
khác tương tự. Nhưng xin bạn cho phép tôi gọi nó bằng cái từ tiếng Anh Being. Giản dị, hàm súc, nhưng hết sức
bao la, gợi mở. Dịch sang tiếng Việt, gọi nó là “đời sống” hoặc “kiếp người”
thì không đủ nghĩa, còn các thuật ngữ Hán-Việt thì bị tô đậm bởi màu sắc Triết
học nặng nề, khó hiểu. Kì thực, dưới luồng sáng của Triết học, Being được định nghĩa là, “Một hình thái
ý thức chủ quan lẫn khách quan lí giải thực tại và sự hiện hữu.” Các triết gia
Hy Lạp thời cổ đại nói nhiều về nó. Sang thời cận, hiện đại các triết gia như
Hegel, Heidegger, Sartre, v.v… cũng tốn khá nhiều giấy mực về nó. Tuy nhiên,
bởi không mấy mặn mà với Triết học nên tôi thích hiểu từ Being theo cái nhìn
của thi ca, một suy nghiệm giao thoa giữa thực tại và huyễn mộng, bằng một thứ
ngôn ngữ trong suốt chứ không dày đặc thuật ngữ vốn rất dễ đưa người ta sa vào
chốn hoả mù. Being dưới mắt nhìn của thi ca, có lẽ đơn giản hơn và dĩ nhiên
“thơ” hơn. Vì nó, Shakespeare băn khoăn, “to
be or not to be”; Nguyễn Du gọi nó là “cuộc
bể dâu [với] những điều trông thấy mà
đau đớn lòng”; gần chúng ta hơn, Milan Kundera gọi nó là cái “hệ toán hiện sinh”; và nhà thơ Nguyễn
Lương Vỵ, với tinh thần cụ thể Việt Nam tính, thấy gì nói đó, gọi nó là “bầu trời lộn ngược.” Hiển nhiên, các thi
sĩ cũng đã tốn không ít giấy mực cho cái Being
mà tập thơ Năm Chữ Ngàn Câu của nhà
thơ Nguyễn Lương Vỵ này là tốn kém mới nhất.
Mở tập thơ, tôi
bắt gặp ngay thái độ và câu trả lời của nhà thơ, mà tôi đặc biệt yêu thích và
tâm đắc, về cái Being, “Hỏi ta vui hay buồn? Theo nắng sáng xuống
phố!” (Âm cuối thu). Một thái độ trầm tĩnh thấm đẫm tinh thần Đạo giáo đông
phương! Nhẹ nhàng. Phơi phới. Thong dong.
Không cần đi vào
những suy nghiệm siêu hình mà lại tác động mạnh mẽ lên cảm xúc, đó là lợi thế
của thi ca trên Triết học. Câu thơ biểu hiện một ý thức trong sáng nắm bắt được
lẽ sống thiên nhiên, thấu hiểu lẽ đời và những hữu hạn tất yếu của con người
sinh sống trong đó. Sống hài hoà với những quy luật tự nhiên, sống nương theo
lẽ đời chứ không chinh phục cuộc đời; sống luôn luôn khiêm tốn, chẳng bao giờ
dám vọng động đến độ tự nhận mình là đỉnh cao (mà khiếp hãi nhất là đỉnh cao
trí tuệ). Phải chăng đấy là triết lí sống của người xưa mà ngày nay chúng ta
gần như quên bẵng?
Theo tôi, nhà thơ
chẳng cần phải trả lời câu hỏi đời buồn hay vui, bởi cuộc truy tìm ấy là một
“nghịch lí chung cuộc”, nếu tôi được phép vay mượn cụm từ này của Kundera. Một
nghịch lí “hết thuốc chữa” của cái Being.
Và, với Nguyễn Lương Vỵ, nó là “Dấu hỏi
hẳn đã chìm trong mộ, Hay vẫn lang thang trên đường về?” hay “Dấu hỏi giữa hư không thầm nhắc, Xa lòng
giấc mộng vẫn cầm canh.” (Dấu hỏi giữa hư không). Mọi suy diễn và lí giải
về cái Being đều mang nặng tính chủ
quan và không thực. Quan trọng hơn, nó sẽ không đi đến đâu và giải quyết được
gì cho chính bản thân chúng ta, nói gì đến tha nhân. Nhà thơ là kẻ nhạy cảm với
đời sống hơn ai hết, đau cái đau của nhân sinh, vui cái vui của đồng loại,
nhưng đừng kêu gọi nhà thơ cho lời giải đáp của cái “hệ toán hiện sinh” kia. “Đời thơ không khổ nạn, Làm sao thấu được
thơ?” (Không đề IV). Bởi nó là câu hỏi giữa hư không.
Không có câu trả
lời nhưng cũng không tuyệt vọng. Vâng, nhà thơ chìm đắm trong nỗi buồn, từ nỗi
buồn vạn cổ cho đến nỗi buồn vu vơ, nhưng nhà thơ không tuyệt vọng. Quả thế,
tôi không hề tìm thấy một ý nghĩ tuyệt vọng nào trong thơ Nguyễn Lương Vỵ.
Ngược lại là đằng khác. Cho dù “khổ nạn” bao nhiêu chăng nữa, nhà thơ vẫn
“xanh” như trong bốn câu, “Thánh ca rồi
cũng tan, Cầm dương rồi cũng tạnh. Lạnh lạnh lạnh lạnh lạnh, Thi sĩ đã về xanh.”
(Không đề VIII).
Ugo Betti, nhà văn
kiêm kịch tác gia người Ý có lần nói, “Tại
bất cứ giây phút nào tôi mở mắt, tôi đều hiện hữu. Còn trước đó, trong suốt cái
vô hạn, là cái gì? Thưa, không là gì cả.” Một tình cờ thật thú vị, tôi tìm
thấy ý tưởng này của ông nhà văn viết cách đây gần ba phần tư thế kỉ trong mấy
câu thơ sau của Nguyễn Lương Vỵ, “Mộng
ngày quên hỏi lại, Chùm bông dại bay rồi. Lòng tay vắng tiếng trời, Biết làm
sao gặp được.” (Phải vậy không?). Sư thật là, chỉ cần sống, chỉ cần hiện
hữu trên mặt thế gian này đã đủ cho nhà thơ cảm thấy toại nguyện, “Sống cho trọn kiếp, nào phải trò trẻ con.”
Câu thơ của Boris Pasternak trong bài thơ bất hủ Hamlet. Tôi nghe kể hôm nhà thơ qua đời, nhà nước Sô-viết chẳng
những không loan báo mà còn tìm mọi cách ngăn cản người tiễn đưa thi hào quá cố
ra huyệt mộ. Thế nhưng vẫn có vài ngàn người đến dự đám tang ông. Chừng chục
người ghé vai khiêng quan tài, nắp áo quan mở toang, họ vừa đi vừa cất giọng
trầm hùng đọc to bài thơ Hamlet như
lời tiễn đưa vĩnh biệt nhà thơ vĩ đại của dân tộc họ. Tôi chạnh nghĩ, thực ra
họ đọc lời tâm nguyện sống như ông đấy. Sống cho trọn kiếp! Ôi, một điều khó
khăn vô hạn!
Người là con vật
duy nhất mà cái Being của riêng hắn là vấn nạn chỉ mình hắn giải quyết. Sự vĩ
đại của con người không nằm ở những thành tựu chính trị hay kinh tế, không ở
chỗ “thành công hay thành nhân,” mà chính ở chỗ hắn can đảm sống và sống cho
trọn kiếp. Âm nhạc của Beethoven không ca ngợi con người anh hùng hay cá nhân
thần thánh. Nó là bản tụng ca cho cái tinh thần sống như con người. Và đừng
quên câu nói bất hủ của Jean-Paul Sartre, như nguyên lí thứ nhất cho Triết học
Hiện sinh, “Con người chẳng là cái gì
ngoài cái hắn tạo dựng nên chính hắn.”
*
Mặc dù tự nhận
mình có sống trong mộng ảo trong những câu thơ sau, “Cuối đời càng lắm mộng, Đêm về mộng am mây. Ngày ủ trong lòng tay, Ngát
thơm chùm bông dại.” (Phải vậy không?). Thế nhưng Nguyễn Lương Vỵ không có
xu hướng quay về cõi mộng như rất nhiều nhà thơ miền Nam Việt Nam thuộc thế hệ trước. (Một hiện
tượng khá lạ bởi trong một đất nước tơi bời khói lửa chiến tranh mà chỉ có vài
ba thi sĩ nói về chiến tranh). Không quay về cõi mộng, Nguyễn Lương Vỵ cũng
tuyệt đối rũ bỏ son phấn lụa là. Bạn sẽ không tìm thấy những thi ảnh kiểu “em
buông tóc kiêu sa đi trong chiều nắng hạ” hoặc “ngón tay em dài, ngón chân em
nhỏ” trong thơ Nguyễn Lương Vỵ bao giờ. Tôi mừng lắm. Bởi thú thật, tôi ớn loại
thơ đó đến tận óc. Mong nó sẽ mãi mãi nằm trên kệ sách bụi bám của các thư viện
thị trấn miền xa.
Thơ Nguyễn Lương
Vỵ không son phấn lụa là nhưng nhục cảm thì có.
Hai bài thơ thấm
đẫm nhục cảm là bài “Đêm Tượng Trưng” và bài “Hà Hà Hà!”. Thấm đẫm nhục cảm
nhưng cả hai đều kết bằng tiếng cười ha hả như khoái trá, như chọc ghẹo, như đùa
cợt bông phèng. Tôi lấy làm lạ. Khi đụng chạm đến vấn đề thân xác nhục cảm,
người ta thường hay “chất ngất cơn say” hoặc “đưa em lên đỉnh cuộc tình” chứ ai
đời lại cất tiếng cười ha hả bao giờ. Tôi có cảm tưởng đây chỉ là sự châm biếm,
tự biếm thì đúng hơn, nào đó của chính nhà thơ. Nhục cảm được thăng hoa bởi
tiếng cười ha hả chăng? Nhục cảm ở chừng mực nào đó biến thành sự hài hước.
Nhưng cái hài hước ở đây nhất định không phải là sự trào phúng hoặc mỉa mai cay
độc. Ngược lại, nó chính là tinh thần tích cực yêu cái đẹp tự nhiên. Nó được
thể hiện bằng tiếng cười khoái trá. Trong thơ Nguyễn Lương Vỵ, có nhiều tiếng
cười khoái trá như thế lắm. Dịch xong một câu thơ cổ, “Mừng rơn hơn trúng số” (Hương cổ thi). Hoặc tự biếm “Mừng ta ngày càng khù!” (Không đề III).
Tự biếm rồi cười khà khoái trá. Một thái độ khinh mạn ư? Nhưng nếu hiểu hài
hước là cảm xúc chủ quan về tính mâu thuẫn (cái nghịch lí hết thuốc chữa) của
đối tượng thì chúng ta nhận thức được thái độ hết sức nhân bản của nhà nghệ sĩ.
“Je suis Charlie!”
Đọc thơ Nguyễn
Lương Vỵ, bạn sẽ ít bắt gặp những thi ảnh cụ thể của thực tại. Không có những
thao thức hay trăn trở (đôi khi rất giả tạo) của kiếp sống hay kiếp tha hương.
Tôi không trách nhà thơ quay lưng với thực tại, bởi thực tại lắm khi chỉ là
giấc mộng vô thường, đến rồi đi, tồn tại rồi tan biến, có rồi không, hoan lạc
rồi đau khổ, nói chung là cái vòng luẩn quẩn vô thủy vô chung. Nó có gì đáng
cho nhà thơ ca ngợi đâu. Hãy xem nó như cỏ rác, bụi bặm bám lên người trong
những giây phút vô ý, sa đà, biếng nghĩ; hoặc nếu cần thì cứ đổ lỗi cho số
kiếp, cho định mệnh tai ương hay quyền lực bạo tàn nào đó. Nó là phần dư thừa,
những tế bào ung thư của đời sống. Cái đáng ca ngợi trong thi ca chính là sự cô
độc, sự hiu quạnh của kiếp người. “Đêm
lạnh không tiếng dế, Chỉ có tiếng thạch sùng. Tiếng trời là tiếng gió, Cửa sổ
khép hờ rung.” (Mấy bận thu phai). Hay “Người
đi đâu lặng ngắt, Đời về đâu lặng thinh.” (Không đề V). Sự thinh lặng giúp
nhà thơ chiêm nghiệm lẽ sống và những điều khác lạ mà có lẽ khó nhận thức nếu
chung quanh là cảnh huyên náo của cuộc đời. “Khách lạ đứng nín thinh, Cúi nhặt vài âm lạ.” (Trưa ở chùa Linh
Ứng).
Nguyễn Lương Vỵ
bảo làm thơ tức là làm thinh. Câu “Mần
thơ là mần thinh” (Tự hỏi tự đáp), như một lời tuyên ngôn cho việc làm thơ
của mình, láy đi láy lại như một điệp khúc trong tập thơ. Nó đồng nghĩa với sự
cô độc. Làm thơ là nói với chính mình, là độc thoại với khoảng không vô hạn
trong lòng mình. Đúng ra, nghệ thuật nào cũng là sự đối diện của người nghệ sĩ
với sự cô độc của chính mình. Chỉ sự cô độc mới cho người nghệ sĩ tìm ra cảm
hứng sáng tạo, cho “Chữ reo xanh ý tứ,
Sắc màu ứa vó câu.” (Không đề IX). Trăm
năm trong cõi người ta là Trăm năm
hiu quạnh. Hoặc như Octavio Paz, nhà thơ lớn nhất của nền thi ca Mexico
thời hiện đại nhận định trong cuốn The Labyrinth of Solitude, “Sự hiu quạnh là cái gì sâu thẳm nhất của
kiếp người. Con người là sinh vật duy nhất biết mình cô đơn.”
Tôi yêu thích
những bài “Không Đề” trong tập thơ Năm
Chữ Ngàn Câu này, nhất là bài Không Đề IV đề tặng nhà thơ Nguyễn Thị Khánh
Minh. Nó gói ghém cái nhìn của nhà thơ về nhà thơ. Như trả lời câu hỏi, “Nhà
thơ, mi là ai?” Có những câu khá cường điệu trong bài thơ như, “Đời thơ không lời đáp, Tự móc mắt moi tim.”
Sự cường điệu có lẽ là cần thiết như một hình thức biểu đạt, nhưng tựu trung,
nó vẫn khẳng định thi sĩ luôn luôn là kẻ cô đơn. “Đời thơ không quán xá, Chữ buốt giá tuỷ trời.”
Mô-típ huyết-âm,
âm-huyết xuất hiện như nốt nhạc láy rền vang động trong thơ Nguyễn Lương Vỵ.
Chúng hiện hữu như một ám ảnh khôn nguôi, quay về mãi, mỗi lần với một ý nghĩa
khác nhau, và tất cả những ý nghĩa khác nhau đó tuôn chảy qua cụm từ như dòng
nước tuôn chảy qua lòng sông. Tôi muốn gọi chúng là lòng sông của Heraclitus.
(“Bạn không thể bước hai lần xuống cùng
một dòng sông”). Tôi không rõ lắm hiệu ứng thi ca của các cụm từ đó khi
xuất hiện trong những bài thơ mà đôi khi hiện ra như tiếng kêu tắc nghẹn, ngậm
ngùi. Chỉ thấy bàng bạc một cảm xúc mơ hồ dấy lên trong tâm tưởng chảy qua dòng
sông này có một dòng sông khác; dòng sông với ý nghĩa mới và những ý nghĩa cũ
cộng hưởng, hòa nhập vào nhau. Cuộc nghiệm sinh mỗi lần vang lên là một lần hòa
nhập vào nhau khiến bản hòa âm đời sống càng thêm phong phú.
Ít thấy những thi
ảnh cụ thể trong thơ Nguyễn Lương Vỵ, và nếu có thì nó mang hơi hướm cổ điển
như những câu sau trong bài Âm cuối thu, “Chiêm
bao màu nắng lụa, Hửng sáng ửng một đoá. Cúc vàng đang ngậm sương, Tóc bạc vừa
níu gió.” Cú điệu, nhạc tính trong thơ đều đều, êm nhẹ, đa phần là thuận
âm, bởi hầu hết là thơ năm chữ niêm luật chỉn chu. Đọc tập thơ, thú thật có lúc
tôi muốn tìm một nốt nhạc nghịch âm nào đó, và mặc dù trước khi gấp sách, tôi
bắt gặp vài ba bài thơ xuôi và thơ tự do, nhưng nhạc tính của những bài thơ đó
vẫn không thoát khỏi sự êm dịu cố hữu của thuận âm. Bạn cũng sẽ thất vọng nếu
bạn tìm kiếm sự khai phá (hoặc đột phá, bứt phá, công phá, nếu muốn nói theo
ngôn ngữ thời thượng) trong thơ Nguyễn Lương Vỵ. Không có những thử nghiệm mới
lạ hoặc những hình thức làm dáng kiêu kì. Không có những kiểu vắt dòng ngược
ngạo hay những kí hiệu gạch ngang gạch chéo ngớ ngẩn như thơ của nhiều nhà thơ
ngày nay. Không có những thi ảnh trừu tượng, bí hiểm, làm dáng. Thơ Nguyễn
Lương Vỵ chủ về ý nghĩa và nghệ thuật phối từ. Nhà thơ cẩn trọng với chữ nghĩa
vốn là truyền thống của thi ca Việt Nam từ thời Trung đại. Đọc thơ
Nguyễn Lương Vỵ, tôi ít bắt gặp những từ hào nhoáng, nuột nà. Thế nhưng, nhờ
tài năng và một tâm hồn yêu thơ cao độ, Nguyễn Lương Vỵ đã khéo léo sắp đặt
những từ tưởng là tầm thường như hòn sỏi bên cạnh nhau để biến chúng thành
chuỗi ngọc sáng ngời.
Đọc xong tập thơ
của Nguyễn Lương Vỵ, nếu có kẻ hỏi tôi đời buồn hay vui thì tôi sẽ trả lời kẻ
ấy bằng câu thơ “Theo nắng sáng xuống
phố!” rồi thản nhiên nhìn cái Being
chảy trôi trước mắt.
©
Tác giả giữ bản quyền. . Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gởi từ Sài Gòn ngày 16.01.2015
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét