Home
» Cập nhật lại
» Lý luận phê bình
» Nhà giáo ưu tú Trương Tham: “Tây Sơn Ai Tư Vãn truyện” là một tác phẩm văn chương thực sự.
Nhà giáo ưu tú Trương Tham: “Tây Sơn Ai Tư Vãn truyện” là một tác phẩm văn chương thực sự.
Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015
Điều
nổi bật ở đây là người con của Quang Trung được tác giả hư cấu trong truyện–
một giọt máu anh hùng được nhân dân nuôi dưỡng đã vuột ra khỏi lưỡi hái tử thần
của Gia Long mà sống sót như một cánh chim trời: “Mênh mông đất rộng trời
cao/ Mang mang giấc mộng thuở nào khôn nguôi”. Tác phẩm đã khép lại
nhưng đồng thời mở ra về sự trường tồn bất tử của Tây Sơn Nguyễn Huệ. ... Nhìn
chung “Tây Sơn Ai Tư Vãn Truyện” là một tác phẩm văn chương thực sự. Tác
phẩm ấy lại ra đời trên mảnh đất Tây Sơn.
Thông tin liên hệ: (VanDanViet)
Tác giả NGƯTTrương Tham (1941-2012)
TPTTH Trưng Vương Qui Nhơn.
______
TÂY SƠN
AI TƯ VÃN TRUYỆN
LÀ MỘT
TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG THỰC SỰ
***
Có lẽ đã lâu lắm rồi
mới thấy xuất hiện một truyện thơ dài hơi và hoành tráng đến vậy! Khác với
những truyện thơ trong lịch sử văn chương, có những phần hư cấu nhưng căn
bản tác giả dựa vào một sự thật hào hùng và bi tráng về Tây Sơn – Nguyễn Huệ.
Một sự thực đã đi vào lịch sử và đời sống tâm hồn dân tộc như một niềm tự hào
kiêu hãnh.
Điều đầu tiên ghi nhận–
tác giả tỏ ra hiểu biết và nghiên cứu kỹ lưỡng về sự thật lịch sử ấy. Bằng nghệ
thuật bút pháp và tình cảm sâu sắc cộng với nội lực dồi dào, tác giả đã xâu
chuỗi, khái quát thành một kết cấu chặt chẽ, mạch lạc để hoàn thành một truyện
thơ dài 3256 dòng lục bát. Tưởng chừng như dễ, nhưng không dễ chút nào! Vì đó
là cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động từ khi Tây Sơn dấy nghĩa đến khi
Nguyễn Ánh lên ngôi với biết bao sự kiện. Hàng loạt nhân vật hình thành trên
bối cảnh lịch sử gắn bó máu thịt với đời sống ấy. Một vài nhân vật hư cấu xuất
hiện nhưng căn bản là những nhân vật lịch sử có thật. Nhân vật nào cũng có nét
riêng cụ thể. Nguyễn Huệ – Quang Trung, người viết không trực tả mà để xuất
hiện trong lòng và tâm trí của nhân dân cũng như trong ước mơ khao khát của
Ngọc Hân: “Ba quân quen giọng chuông
đồng/ Voi rừng qui phục dáng thần uy nghi/ … Tim nàng chưng đã nghe rền nỗi
ngây”. Còn Bùi Đắc Tuyên thì: “Có đôi mắt cáo thâu đêm nhón người …” khi thâu tóm được
quyền lực “Săm sua mũ áo, lăng xăng uy quyền …”. Cùng vẻ đẹp của
người con gái, nhưng Ngọc Hân “Ngẩn
người hai chữ đoan trang/ Vầng trằng mười sáu sáng tràn màu da”. Ngọc
Du quận chúa: “Mười năm lưu lạc mà
trong như ngần”. Nguyễn Huệ từ khi còn rất trẻ đã có những suy nghĩ
khác thường. Trong lúc được thầy giáo Hiến chia xẻ: “Chờ khi giết bọn bất nhân/ Lòng ta với chúa khó phần đổi thay…”. Thì
Huệ đã tỏ bày quan điểm ”Chữ trung
nghĩa đến đời nay vẫn nhiều …”. Để đi vào vấn đề chính là “dân an,
nước thái.” Đó là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời Ông cũng
như các tướng lĩnh của Ông. Đối lập với tư tưởng ấy là Nguyễn Ánh – Gia
Long. Tự thân bộc bạch ý chí quyết tâm của mình là dành lại bằng được ngôi
báu, thoả mãn việc trả thù riêng, kẻ nào thuận thì sống nghịch là mất đầu “…Nhổ cho sạch rễ chớ rày buông lơi/
… Như xưa nó giết hết người nhà ta/ …Ai can gián sẽ làm ma không đầu”. Nguyễn
Ánh là một nhân vật được xây dựng khá sắc nét: “Lách luồn bất chấp nghĩa nhân …” khi thì: “Ăn bờ ở bụi rước ngoài dày trong”. Lúc
trả thù, trước cảnh đầu rơi máu chảy: “Tiếng
cười rin rít kẽ răng/ … Mắt Vua hốc lửa lườm lườm ánh xanh”; cũng có
lúc: ”Lặng nhìn suốt cuộc trần
ai” để không khỏi kinh hoàng: “Bờ
sinh bến tử bàng hoàng máu me” rồi tự nhận ra mình: “…Nhìn qua cái bóng đười ươi đời mình”. Là
con người nhưng cái bóng đươi ươi, là con người nhưng làm những việc mất hết
tính người thì ý nghĩa mới thật sâu sắc. Trong toàn tác phẩm, hình ảnh của nhân
dân là một hình ảnh đậm nét. Tác giả đã diễn tả sự thay đổi trong thái độ của
nhân dân đối với triều đại Tây Sơn- Nguyễn Huệ – Quang Trung đã cùng nhân dân
làm nên nghiệp lớn, được nhân dân tôn thờ. Sau khi Ông qua đời, triều đình thối
nát thì lòng dân lại chán ghét dẫn tới sự trông chờ chúa Nguyễn, dù sự trông
chờ ấy có mong manh: “Xin trời đừng
trở heo may/ Để thuyền chúa Nguyễn đêm ngày nhanh ra”. Diễn tả sự thực
lịch sử này, tác giả đã nêu lên sự phân minh sáng suốt, cũng như khát vọng về
cảnh thanh bình độc lập như một khát vọng muôn đời của dân tộc. Điều nổi
bật ở đây là người con của Quang Trung được tác giả hư cấu trong truyện– một
giọt máu anh hùng được nhân dân nuôi dưỡng đã vuột ra khỏi lưỡi hái tử thần của
Gia Long mà sống sót như một cánh chim trời: “Mênh mông đất rộng trời cao/ Mang mang giấc mộng thuở nào khôn
nguôi”. Tác phẩm đã khép lại nhưng đồng thời mở ra về sự trường tồn
bất tử của Tây Sơn Nguyễn Huệ.
Thơ là tình cảm,
nhưng là truyện thơ thì sự kết hợp giữa yếu tố truyện và tình cảm phải có sự
cân nhắc. Tác giả nặng về phía tình nên phần lớn ý thơ chưa bật hết sự hào sảng
tỏa sáng của hào khí Tây Sơn. Nhiều đoạn thơ rất hay càng đọc càng thấy
hay: “…Chìa tay níu lại vùng trăng/
Non tây đã điểm thùng thằng trống canh …” nhưng cũng không tránh
khỏi một vài đoạn lời thơ chưa thật đẹp bởi bản thân tác phẩm là một truyện thơ
dài. Ngay cả Truyện Kiều "Trên yên sẵn có con dao…” hay Lục
Vân Tiên: "Vợ Tiên là Trực chị dâu” thì Vũ
Đình Ninh làm sao không có những câu kiểu như “Tấm thân tố nữ mượt mà/ Mượt mà dáng
dấp lụa là mượt hơn”.
Nhìn chung “Tây
Sơn Ai Tư Vãn Truyện” là một tác phẩm văn chương thực sự. Tác phẩm ấy lại ra
đời trên mảnh đất Tây Sơn.
Qui
nhơn tháng 9 năm 2009
Nhà giáo ưu tú Trương Tham
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày
05.9.2010
. Cập nhật lại ngày 17.10.2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét