Châu Thạch: Đọc “Tiệc rượu giữa đồng”, thơ Lê Đăng Mành
Thứ Năm, 16 tháng 10, 2014
Nhiều người hiểu chữ “Lãng Mạn” có nghĩa đen là “sóng tràn bờ”, là một trạng thái cảm xúc bay bổng.
Phản ảnh một ước mơ của khát vọng vươn lên trên thực tại. Nếu đúng nghĩa là như vậy thì bài thơ “Tiệc rượu giữa đồng” cúa Lê Đăng Mành là một bài thơ rất lãng mạn và lãng mạn ngay từ cái đầu đề. Thật vậy, có mấy ai mở tiệc rượu giữa đồng. Tiệc rượu đó nếu không là ngông, là kỳ quặc thì phải có ý nghĩa gì vượt xa sự thường tình ở đời.
Thông tin cá nhân:
(VanDanViet)
Tác giả Châu Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
ĐỌC “TIỆC RƯỢU GIỮA ĐỒNG”, THƠ LÊ ĐĂNG
MÀNH
Nhiều người hiểu chữ “Lãng Mạn” có nghĩa
đen là “sóng tràn bờ”, là một trạng thái cảm xúc bay bổng.
Phản ảnh một ước mơ của khát vọng vươn lên
trên thực tại. Nếu đúng nghĩa là như vậy thì bài thơ “Tiệc rượu giữa đồng” cúa
Lê Đăng Mành là một bài thơ rất lãng mạn và lãng mạn ngay từ cái đầu đề. Thật
vậy, có mấy ai mở tiệc rượu giữa đồng. Tiệc rượu đó nếu không là ngông, là kỳ
quặc thì phải có ý nghĩa gì vượt xa sự thường tình ở đời. Đọc toàn bộ bài thơ
ta thấy nó không ngông, không kỳ quặc mà phát hiện ở đó bày tỏ một nhân cách
sống thanh bần và cao thượng:
Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về
tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
Hư không có biết mai còn gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này
Kênh- mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp
bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò
chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn
đào*
Hắt một chén nhâm nhi cùng gió lộng
Không cao lương nên chẳng móc
chuyện người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm
lời
Chẳng khoa trương chuyện thương nòi
yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh còn
ngân
Hắt chén nữa ruộng mương là chăn
chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
Dẫu tắt hơi! thân hóa cỏ đê này
Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời
này…!
----
*Nơi
anh em Lưu Bị kết nghĩa
----
Vế đầu của bài thơ giới thiệu một tiệc rượu
mở ra trên đồng ruộng trong khung cảnh buổi chiều bóng ngã vể tây. Lý do để mở
tiệc là vì tác giả sợ đời là hư không nên biết đâu không còn cơ hội gặp nhau.
Đọc vế thơ nầy ta biết ngay tác giả dùng bữa tiệc trên đồng ruộng hoặc hư cấu
một bữa tiệc như thế để bày tỏ phong cách sống của mình trong những tháng năm
vào tuổi Hạc:
Chiều sắp xuống tung lưới quẳng về
tây
Vội vã khói mây tiễn cuộc hao gầy
Hư không có biết mai còn gặp lại
Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng này
“Chiều gần xuống kéo lưới quăng về tây” là
hình ảnh sống động chỉ sự sắp ra đi ở cuối đời người. Buổi chiều của thời gian
chỉ kéo ánh sáng quăng về tây nhưng buổi chiều của đời người thì kéo tất cả vào
cái lưới trời lồng lộng quăng vào trong bóng tối. Vậy chữ “tây” ở đây là bên
kia thế giới của sự sống hiện tại.
“Thôi tới đây cạn chén giữa ruộng nầy”: Vì
“chiều” thể hiện cho cuộc đời còn lại, “tây’ thể hiện cho thế giới chết bên kia
nên “ruộng” ở đây thể hiện cho đất sống hiện tại và “rượu” là niềm vui cần
hưởng thụ.
Bốn câu thơ mở đầu đã thể hiện ngay một
cách sống vô vi, ung dung và tự tại: Chiều ngã về tây nên ta uống rượu có nghĩa
là sắp lìa bỏ đời nầy ta mau hưởng thú vui trên đất. Thú vui trên đất mà lê
Đăng Mành chủ xướng chỉ là một tiệc rượu đơn sơ đạm bạc nhưng đó là linh hồn
của sự thắm thiết và tinh hoa của đất trời nơi nhà thơ đang sống:
Kênh-
mương- bờ - thửa, mâm bàn tiếp bạn…
Lấp lánh hôn hoàng nghiêng vạt cò
chao
Bát ngát mênh mông như tranh thủy mặc
Rượu chay chén chuyển khiếp tận vườn
đào*
Mâm b àn tiếp bạn ở đây là đồng ruộng thân
yêu. Rượu ở đây là phong cảnh hữu tình và say ở đây là say hơn cả nghĩa vườn
đào mà anh em Lưu Bị ngày xưa kết ước. Một cuộc rượu như thế là cuộc rượu không
phải của người phàm phu, vì rượu ở đây là hương vị thơm tho, đẹp đẽ của đất
trời trải ra trước mắt mênh mông, cao rộng với biết bao màu sắc bày ra trước
mắt những con người có tâm hồn thanh tao đầy thẩm mỹ.
Bàn rượu và rượu là thứ đời nầy chưa hề có
ai đem ra mở tiệc nhưng cách uống của nhà thơ cũng khác lạ:
Hắt một chén nhâm nhi cùng gió
lộng
Không cao lương nên chẳng móc chuyện
người
Chén tiếp chén …tay chuyền tay dân dã
Kiếp nông bần uống rượu… cũng kiệm
lời
Chẳng khoa trương chuyện thương
nòi yêu nước
Mà sử sách ghi mỏi trang bốn
ngàn
Chân lấm tay bùn trí soi văn
sách
Khoa bảng vọng đồng văn thánh
còn ngân
“Hắt một chén” có nghĩa là không phải uống
vào bụng mà làm cho rượu bay ra không gian. Đây là khẩu khí của những con người
hào kiệt rưới rượu giữa đất trời, bày tỏ khí phách hiên ngang của mình cùng
sông núi.
Những chén tiếp theo nhà thơ chuyền tay cho
bạn mình là những con người dân dã, nông bần, “kiệm lời” vì mang tâm tư sâu
kín. Họ chẳng khoa trương vọng ngữ nhưng “Chân lấm tay bùn mà trí soi văn sách”.
Hai vế thơ nầy bày tỏ khí phách cúa những con người nhập tiệc, sự điềm đạm tỉnh
táo của lớp người có nhân cách trước thế gian. Họ chỉ là người dân dã nhưng
minh triết ở tâm hồn.
Vế tiếp theo có khẩu khí sảng khoái nhất
của bài thơ, như anh chàng nông dân lại múa kiếm nhuần nhuyển giữa đất trời,
toát ra cái hào khí ngất trời từ trong chiếc áo nâu:
Hắt chén nữa ruộng mương là chăn
chiếu
Có ói đây cũng phân bón đất cày
Cho mầm tươi nứt- trổ bông hào kiệt
Dẫu tắt hơi! Thân hóa cỏ đê này
Cái hào khí trong chiếc áo nâu đó nhà thơ
muốn không chỉ có ở đời nầy mà nó phải lưu truyền cho thế hệ sau. Dùng ruộng
mương làm chăn chiếu, ói cái chất văn chương minh triết của mình để bón phân
cho đất, và chôn xác mình nơi đây để hoá cỏ cho đời là lý tưởng tuyệt đối của
nhà thơ. Lý tưởng đó không khó với người nông dân bình thường nhưng rất khó với
người nông dân trí thức vì chim cánh rộng thì phải bay xa, mấy ai làm kẻ sĩ lại
chôn chân mình nơi đồng ruộng được đâu. Nhưng nếu kẻ sĩ chôn được chân mình nơi
đồng ruộng thì nó sẽ biến thành đóa sen đẹp hoàn toàn như vế chót của bài thơ:
Lý lịch trơn nhờ bùn đất tắm gội
Hãy giữ gìn tinh khiết khi lỡ say
Như sen kia chẳng làm dơ nguồn
cội
Vẫn ngát hương thơm hiến cuộc đời
này…!
Cuộc đời nầy rất cần nhiều nhân vật trong
thơ Lê Đăng Mành vì mấy ai chịu “giữ gìn tinh khiết khi lỡ say”, bởi vì họ
chẳng say “Tiệc rượu giữa đồng” mà say trên bàn cao ghế đẹp.
Bài
thơ “Tiệc rượu giữa đồng” là một triết lý sống thanh cao lồng trong một phong
cách sống thanh bần. Ý nghĩa của bài thơ thật sâu xa lồng trong lời thơ thanh
thoát. Rất tiếc người bình không viết đạt những gì mình cảm nhận trong thơ./.
Châu Thạch© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gởi từ Tp. Đà Nẵng ngày 16.10.2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét