Truyện ngắn Phan Trang Hy trang 1 (Đà Nẵng)
Thứ Hai, 8 tháng 9, 2014
VÀNG MAI/ KÉN
CHỒNG/ IM LẶNG CỦA THIỀN SƯ/ QUỲNH HOA/ QUÀ YÊU/ CÕI THIÊN ĐƯỜNG RÁC/ BẢNG LẢNG
NHƯ HOA MÙA XUÂN/ NGƯỜI ĐÀN BÀ BÁN LỘC/ CÁNH VẠC BÊN ĐỜI/ ĐAU ĐÁU HOÀNG SA/
Đưa chén trà lên môi, nhắp nhẹ, giọng từ tốn, tôi khẽ nói: "Bác có khi nào
tìm về chốn cũ ấy chăng?”. Lão già nước mắt lưng tròng, gượng cười: "Thầy
giáo ạ! Trước đây thì có, giờ thì chân chùn gối mỏi làm sao mà đến được. Âu
cũng là phận cả! Thế thầy có tin mỗi cuộc đời đều có phận của nó không? Tôi thì
tôi tin thầy ạ! Càng già thì càng tin. Chả bù với thời trẻ”.
Tác
giả Phan Trang Hy
Sinh
năm 1956
Quê:
Đại Lộc, Quảng Nam
Hiện
ở Đà Nẵng
ĐT:
0935484482
Email: phantranghy@gmail.com
_____
VÀNG MAI
Đưa chén trà lên môi, nhắp
nhẹ, giọng từ tốn, tôi khẽ nói: "Bác có khi nào tìm về chốn cũ ấy chăng?”.
Lão già nước mắt lưng tròng, gượng cười: "Thầy giáo ạ! Trước đây thì có,
giờ thì chân chùn gối mỏi làm sao mà đến được. Âu cũng là phận cả! Thế thầy có
tin mỗi cuộc đời đều có phận của nó không? Tôi thì tôi tin thầy ạ! Càng già thì
càng tin. Chả bù với thời trẻ”.
- Bác nói thế thì tôi tin
thế. Mà đã có phận tất có duyên. Cũng nhờ có duyên mà tôi được làm quen với bác
đấy.
Lão cười: "Thầy khéo
nịnh! Mà thôi! Giờ thì tôi đưa thầy đi xem mai”.
Tôi cùng lão ra vườn. Gọi
là vườn cho nó "khí thế”, chứ thực ra ở cái thành phố đang phát triển này
làm gì có đất rộng để làm vườn.
Chả bù lúc ngồi nói
chuyện. Giờ thì lão huyên thuyên khoe với tôi. Cả thảy 21 chậu mai. Nào là Hồng
Diệp Mai tậu từ Sài Gòn; nào là Thanh Mai ở tuốt Bình Định; nào là Bạch Mai mua
tận Thái Lan… Dẫu không có đất, thế mà lão có từng ấy chậu mai, quả thật là
tuyệt! Lão tỉ mỉ giới thiệu cho tôi cái thú chơi mai. Phải biết đợi chờ mai nở,
đếm cánh mai nhiều hay ít để đoán tài lộc, may mắn trong năm. Phải cảm nhận
được hương thơm của mai, hiểu được cốt cách- tinh thần của mai. Phải thở với
hơi thở của mai, hít khí trời như mai… Lão cũng lên lớp với tôi: "Như anh
biết đấy! Tết đến mà thiếu mai thì mất cả hương vị của ngày xuân, mất cả tình
xuân”. Con mắt của lão hóm lên ngời sáng như trêu tức tôi. Tôi chỉ còn biết:
"Dạ vâng! Dạ vâng! Bác nói phải!”.
Lão chào hàng cả thảy 20
chậu mai. Chỉ còn một chậu là lão không đả động gì đến nó. Theo tôi biết, đây
là chậu mai núi bình thường. Nhưng, thế của cây mai quả là chỉ có tay sành điệu
mới tạo được dáng như thế. Thanh mảnh, dáng dấp con gái. Nhìn chậu mai, tôi
nghe như có tiếng thì thào của đất, của trời. Và từ cây mai toát ra cả mùi của
suối rừng và nắng mới. Dẫu là thứ mai núi, nhưng chậu mai đã cảm hóa được tôi.
Tôi cảm thấy hồn mình như đẹp thêm ra. Quả là chậu mai núi đã thuyết phục được
tôi trong chừng mực nào đó. Tôi bèn đề nghị lão:
- Bác để chậu này cho tôi!
- Cũng có nhiều người nài
nỉ tôi. Nhưng có đựợc giá mấy đi nữa, tôi cũng không thể bán- giọng lão chợt
buồn như khi ngồi uống trà với tôi trước đó- Nó là một phần hồn của tôi mà.
Không có nó, tôi cần sống làm gì nữa. Xin thầy giáo thông cảm cho tôi!
- Bác nói thế thì tôi
chẳng dám đâu. Nhưng tôi xin bác kể cho tôi biết sao nó cần thiết với bác đến
như vậy?
- Ta vô nhà nói chuyện.
Chúng tôi lại ngồi vào chỗ
như trước khi xem mai. Vẫn không khí trầm lắng. Lão rót trà.
- Mời thầy giáo uống trà!
Tôi sẽ kể thầy nghe.
Tôi không dám đưa chén trà
lên môi uống, chỉ chú mục vào lão. Giọng lão run run: "Chậu mai khi nãy,
cả cô ấy nữa, cả chốn ấy nữa là một đấy, thầy giáo ạ! Nhìn thấy nó là tôi nhìn
thấy cô ấy, chốn ấy. Thử hỏi như thế thì làm sao tôi để mất nó được”.
Và lão kể…
Giọng lão trầm hẳn xuống.
Tôi chơi vơi trong câu chuyện. Nguyên trước đây, lão là đại đội trưởng quân
giải phóng. Xuân 1968, đơn vị lão được lệnh tấn công huyện lỵ Đại Lộc. Tham gia
chiến dịch này, cấp trên đã phái xuống đơn vị lão một nữ chiến sĩ. Thực ra,
người nữ chiến sĩ ấy là nhà thơ. Theo lão kể, cô tham gia trận đánh là để làm
thơ.
Kể từ ngày cô về đơn vị,
tâm hồn lão như sáng thêm ra. Cái duyên ít thấy ở người đàn ông, ở người lính,
lúc ấy phát ra thứ ngôn ngữ của "thuở ban đầu lưu luyến ấy”. Cô ấy viết
được câu thơ nào đều đưa lão đọc. Đôi khi cô ấy chép những vần ca dao về chuyện
lứa đôi tặng lão. Dù không nói gì với nhau, nhưng mùa xuân tràn ngập trong mắt
dịu dàng của họ. Họ như là của nhau.
Trận đánh năm ấy, quân ta
gây được tiếng vang. Thế nhưng, nỗi mất mát trong lão là cô ấy đã hy sinh khi
chưa viết xong bài thơ cho trận đánh.
Khi rút quân về hậu cứ,
đơn vị lão đã an táng cô gái trong rừng mai. Mùa xuân vẫn còn rực vàng như chưa
hề có sự đau buồn và mất mát ở đây. Lão đã khắc tên cô trên đá - đánh dấu nơi
an nghỉ của một con người, của một đồng đội, của một trinh nữ, của một nhà thơ.
Đơn vị lão về hậu cứ an
toàn. Đêm ấy, máy bay giặc Mỹ thả bom phía rừng mai. Mỗi tiếng bom nổ là vằm
thêm trái tim lão. Lão trơ con mắt. Con mắt đỏ theo tiếng bom. Cả khu rừng mai
phía ấy cũng đỏ lên…
Sáng hôm sau, khi trở lại
rừng mai, lão không tin ở mắt mình. Không còn dấu tích của người con gái ấy;
không còn dấu tích của mùa xuân. Lão rưng rức cúi đầu…
Sau ngày miền Nam được
hoàn toàn giải phóng, lão về lại chốn xưa, đúng cái ngày cô ấy hy sinh. Lão
ngợp hồn trong sắc vàng của mai, lâng lâng chơi vơi trong hương mai. Lão thấy
mình như trẻ lại trong tiếng réo gọi của mùa xuân. Lão nằm, nhìn lên đầy vàng
mai. Lão ngồi xuống, mai vàng. Lão chạy trong vàng mai. Lão bay trong mai vàng.
Bay trong mùa xuân của núi rừng. Trong màu vàng xuân lão thấy hình như cô ấy ẩn
hiện đọc những vần thơ về mối tình đầu của họ.
Về lại thành phố, lão đem
theo một cây mai rừng như là để tìm hình bóng cũ. Cả mùa xuân của đời lão được
vun vén, chăm sóc, nuôi dưỡng ở trong chậu mai rừng…
…Lão đã khóc.Và cứ khóc.
Lão nói trong tiếng khóc. Tôi nghe tiếng khóc của lão: "Tôi tìm hoài cô ấy
mà không thấy. Chỉ có mai rừng, chỉ có sắc vàng của mai. Tôi già rồi làm sao về
lại chốn ấy, làm sao tìm được cô ấy, làm sao đọc được bài thơ cô ấy chưa viết xong?...”.
Một năm sau, tôi đến thăm
lão. Lão không còn. Tôi tự trách mình sao quá vô tình không thắp được một nén
hương cho ấm linh hồn lão khi lão ra đi. Xin lão tha thứ cho tôi!
Rời căn nhà trước đây lão
đã ở, tôi hòa vào dòng người sắm Tết. Tôi vào chợ hoa ở Quảng trường 29-3. Tôi
không thấy gì ngoài hoa. Những cành hoa đơm nụ. Người ta đang bán mùa xuân.
Người ta đang mua mùa xuân. Người ta trao nhau mùa xuân. Tôi chọn mùa xuân cho
mình: vàng mai.
Xuân Canh Thìn- 2000
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả ngày 19.12.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
______________________________________________
KÉN CHỒNG
Âu Nương vén mái tóc dài
quá gót, ngữa mặt nhìn vầng trăng, rồi cúi đầu, thẫn thờ. Nàng chép miệng thở
dài. Tiếng thở dài nghe như tiếng chim uyên gọi bạn, như tiếng nuốt nước bọt
của cô gái chửa thèm chua, như tiếng lòng chinh phụ ngóng chồng, như tiếng đàn
Kiều tìm Kim Trọng… Tiếng thở dài của nàng gọi thị nữ Ngọc Hoa đến. Ngọc Hoa
chắp tay, cúi đầu khẽ bẩm:
- Dạ thưa! Công chúa cần
gì ở tiện nữ!
Quay lại nhìn, Âu Nương
nói:
- Ngọc Hoa, em đó hả?-
Tiếng nàng run run- Em… Em có thể…giúp ta được không?
Cung kính, Ngọc Hoa thưa:
- Dạ! Em có thể giúp gì
cho Công chúa?
Vẫn gương mặt thẫn thờ, Âu
Nương nói:
- Em biết đấy! Vua cha bắt
ta phải lấy chồng. Nhưng ta biết lấy ai bây giờ? Em có cách gì giúp ta không?
Ngọc Hoa vẫn lặng thinh.
Âu Nương van nài:
- Em giúp ta đi! Giúp ta
đi!
Ngọc Hoa ngẫm nghĩ một lát
rồi nói:
- Thưa Công chúa! Theo em
nghĩ đàn ông con trai thì không thiếu gì trong trời đất, nhưng phải chọn sao
cho xứng, kẻo uổng tuổi xuân, kẻo uổng với cương vị.
Mừng rỡ, cầm tay Ngọc Hoa,
Âu Nương nói:
- Em nói hợp ý ta lắm.
Nhưng phải làm thế nào đây?
Ngọc Hoa thầm thì bên tai
Âu Nương. Mặt mày Âu Nương rạng rỡ lên…
*
* *
Tin Công chúa kén chồng
lan truyền khắp chốn. Tiêu chuẩn làm chồng Công chúa yết thị mọi nơi. Đại loại
tuổi tác từ 18 đến 70, không dị tật, không bệnh hoạn, đặc biệt phải là kẻ có
học vấn và đạo đức mẫu mực.
Ngày hội kén chồng của
Công chúa ầm ĩ, náo nhiệt. Đủ loại con trai đàn ông đến dự thí để đạt ngôi vị
Phò mã.
Một bức tượng giống hệt Âu
Nương được chưng bày giữa Ngọ môn để bàn dân thiên hạ chiêm ngưỡng nhan sắc có
một không hai trên thế gian này.
Mọi người đến. Đàn ông có.
Đàn bà có. Trẻ con và các cụ cũng có. Ai nấy đều trầm trồ:
- Thật là tuyệt thế giai
nhân!
- Quả là chim sa cá lặn!
- Ồ! Lá ngọc cành vàng!
Có kẻ thấy tượng nàng đã
phách lạc hồn xiêu. Có kẻ đứng trân như người mất vía. Sắc đẹp của bức tượng đã
cuốn hút mọi người. Ai cũng cảm thấy mình quả là vinh hạnh được nhìn thấy tượng
Công chúa. Bọn đàn ông con trai, có kẻ nhìn thấu tận bên trong tượng. Có kẻ
nhắm mắt mường tượng ôm tượng truy hoan. Ai cũng cho rằng chỉ có mình mới xứng
là Phò mã. Mọi người chen lấn, tranh giành nhau trước cổng Ngọ môn.
Bên trong Ngọ môn có một
căn phòng làm nơi kén chọn Phò mã. Âu Nương trực tiếp kén chọn.
Thời gian kén chọn là từ nửa đêm đến gà gáy sáng. Đèn đuốc sáng trưng cả khu hội. Trước cửa phòng, có bốn thị nữ cầm thương kiếm cung đao uy nghi, lẫm liệt.
Thời gian kén chọn là từ nửa đêm đến gà gáy sáng. Đèn đuốc sáng trưng cả khu hội. Trước cửa phòng, có bốn thị nữ cầm thương kiếm cung đao uy nghi, lẫm liệt.
Từng hồi chiêng trống vang
lên là có người vào ứng thí…
Đêm này qua đêm khác. Từng
hồi chiêng trống cứ vang lên. Nhưng chẳng có ai đạt ngôi vị Phò mã.
Âu Nương nằm trên giường. Như con gà mái đến thời cương trứng, nàng khoác bộ áo quần tơ nhện, đôi mắt thẫn thờ, thở dài chờ đợi từng hồi chiêng trống điểm.
Âu Nương nằm trên giường. Như con gà mái đến thời cương trứng, nàng khoác bộ áo quần tơ nhện, đôi mắt thẫn thờ, thở dài chờ đợi từng hồi chiêng trống điểm.
Vẫn tơ nhện nhẹ che dáng
ngọc, vẫn nằm chờ kẻ xứng lứa vừa đôi, nước mắt nàng ướt cả gối. Thấy vậy, Ngọc
Hoa thưa:
- Bẩm Công chúa! Tại sao
Công chúa khóc?
Âu Nương đứng lên. Cả thân
thể nàng như thắp lửa. Nàng khóc to hơn:
- Không có ai là đàn ông
con trai cả! Tất cả là gỗ đá!- Nàng đập ngực khóc kể tiếp- Đàn ông con trai mà
thế à? Đàn ông con trai mà lên giọng học vấn, đạo đức khi nhìn ta như thế này
à? Sao bọn họ không biết… Ôi! Ước gì có tiếng gà trống gọi mái bên tai ta!...
Cơ thể nóng bừng, mềm
nhũn, Âu Nương phịch xuống giường, khóc rấm rứt…
Tháng 7-1994
Phan Trang Hy
Phan Trang Hy
Địa chỉ: 81 Thạch Lam, quận Sơn Trà, Đà Nẵng
ĐT: 0935484482
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày
08.11.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Đà Nẵng ngày 11.12.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
IM LẶNG
CỦA THIỀN SƯ
1.
Trời vần vũ. Bao tinh cầu
xoay chuyển. Chỉ gió, chỉ tiếng gầm rú của chúng sinh. Không thể nhìn thấy mọi
vật. Chỉ một màu đỏ ối trên trời. Mặt trăng biến thành quả cầu lửa.
Ađam lăn lộn trong cõi hỗn
mang. Bỗng hai thằng người tách ra từ Ađam. Chúng cãi nhau giành phần thắng.
Nhiều con thú cười nói như
người. Rồi tất cả thú hóa người nhảy múa vui mừng tru lên những giai điệu cuồng
mê trong cõi vô minh. Những gương mặt thú biến mất trong phép của quỷ thần tích
tụ. Chỉ có người và người.
- Hoan hô! Hoan hô! Đánh
nữa đi!
- Đả đảo! Đả đảo!
Đám đông cuồng loạn. Vang
trong cõi vô minh tiếng hò hét ầm ĩ điệu nhạc chiến tranh.
2.
Bên gốc đại thụ, ánh hào
quang tỏa sáng. Tưởng chừng như các thiên thần đang chào mừng ơn phước đến với
thế gian. Thiền sư đang kiết già. Ngài dùng điển quan sát ba ngàn thế giới. Đâu
đâu cũng thế!
Bên tai vọng lên giọng của
hai thằng người giành phần thắng, Thanh Văn bạch với thiền sư:
- Thưa sư phụ! Có chuyện
không hay.
Thiền sư hỏi:
- Ông xem họ đang làm gì
vậy?
Cung kính, Thanh Văn bạch:
- Thưa sư phụ! Nếu dùng
thần lực của con tính đếm trong nghìn kiếp mới có thể biết bọn họ làm gì.
Thiền sư bảo:
Thiền sư bảo:
- Ông hãy tính đếm đi!
Nói xong, ngài nhắm nghiền
mắt.
3.
Âm nhạc. Tiếng trống,
tiếng thanh la, tiếng kèn đồng, tiếng tù và, tiếng đàn, tiếng sáo… Vũ điệu.
Tango, chachacha, lambađa, hiphop… Ánh sáng. Xanh, đỏ, tím, vàng, đen… Tiếng la
hét hòa nhịp nhàng với ngàn âm vũ điệu:
- Hãy lên án tên giết
người!
- Hãy giết hết bọn khủng
bố!
- Hãy bắt tên tội phạm
chiến tranh!
- Giết nó đi để trừ hậu
hoạn!
- Hoan hô! Phe ta đã
thắng!
- Đả đảo quân khát máu!
Đám đông hò hét ủng hộ.
Đám đông hò hét phản kháng. Hỗn loạn! Hỗn độn cảnh hỗn chiến!
Thiền sư thiền định.
4.
- Bạch sư phụ!- Thanh Văn
hốt hoảng gọi thiền sư.
- Gì thế?
- Thưa sư phụ! Bọn người
mê loạn trong cảnh đánh nhau.
- Theo ông, chúng ta phải
làm gì?
- Theo con nghĩ chúng ta
phải dùng phép màu tiêu diệt bọn họ.
Nụ cười hiền hậu nở trên
môi, thiền sư ôn tồn nói:
- Đức háo sanh là
căn nguyên tạo nên trời đất, muôn vật. Kể cả tính Phật cũng bởi đức háo
sanh mà ra. Ta nhân danh Phật mà tru diệt chúng sinh ư? Không! Ta phải dùng
pháp mà giải thoát chúng sinh.
- Thưa sư phụ! Người dùng
pháp gì?
Thiền sư im lặng.
5.
Eva múa khúc nghê thường.
Nàng mơ màng hát khúc tình ca bất tử. Nàng trút bỏ xiêm y. Nàng khỏa thân khoe
vẻ đẹp diệu kỳ của tạo hóa ban tặng.
Những cô gái bắt chước
Eva.
Eva cùng những cô gái xuân
trẻ tắm mát cơ thể trong các dòng sông. Các cô khoe thân thể. Các cô đến giữa
bầy người cuồng loạn.
Đám đông im bặt. Hai thằng
người trở thành Ađam như lúc mới sinh. Bọn đàn ông làm theo Ađam.
Mặt trăng dịu dàng tỏa
sáng.
- Bạch sư phụ!- Thanh Văn
mừng rỡ thưa- Chúng sinh chung sống hòa bình rồi!
Thiền sư im lặng…
Địa chỉ: 81 Thạch Lam, quận Sơn Trà, Đà Nẵng
ĐT: 0935484482
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày
08.11.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Đà Nẵng ngày 14.12.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
QUỲNH
HOA
Bày biện nào trà, nào
thuốc, nào bánh ngọt… trên bàn, ông Bằng ngồi vào ghế, mắt chăm chú nhìn chậu
quỳnh chuẩn bị khai hoa. Ông nhớ rõ khi ông bắt đầu yêu là ông yêu luôn sở
thích của cô ấy. Và khi kết hôn với cô ấy, tình yêu hoa như càng tăng thêm
trong lòng ông. Khi quỳnh chớm nụ là hai vợ chồng đều mong giờ hoa nở. Ông nhớ
một lần vợ ông kiếm được chậu quỳnh chớm nụ về, cô ấy đã khoe:
- Anh Bằng! Em tặng anh!
Mắt cô ấy sáng lên như
muốn nói điều gì nữa nhưng lại thôi.
Từng đêm họ chờ hoa nở.
Chờ hoài thì có lúc cũng toại nguyện nỗi chờ mong : quỳnh khai hoa. Nụ hoa từ
từ mở ra. Hương êm êm ngọt lịm. Cánh hoa trắng muốt trong đêm. Màu trắng mềm
mỏng manh, nhẹ tênh. Hương hoa dìu dịu như da con gái dậy mùa.
Tình yêu của họ đẹp theo
ngày tháng. Cô ấy đã ngã vào ngực ông trong đêm chờ quỳnh khai hoa. Ông vuốt
tóc vợ thầm thì: "Hoa! Anh yêu em! Em mãi mãi là của anh!”. Ông mơ màng
trong hương tóc. Chợt vợ ông reo lên: "Ồ, thơm quá! Quỳnh khai hoa.”. Mắt
cô ấy sáng lên. Cả không gian đầy hương thơm. Đêm ngời sáng. Cả không gian như
nín thở khi quỳnh khai hoa. Cả đất trời như nín thở khi mắt họ nhìn sâu vào
nhau. Trong đôi mắt họ ánh ngời lên màu hoa quỳnh. Trong hơi thở của họ quyện
hương quỳnh thanh khiết.
*
* *
Cô ấy đã sinh cho ông một
đứa con trai. Tình yêu của họ đã khai sinh một con người. Ông lấy làm hạnh
phúc. Ông chạy khắp chốn tìm hoa tặng vợ. Cầm đóa quỳnh trên tay, vợ ông cười
mừng: "Cảm ơn anh! Cảm ơn anh đã hiểu lòng em”. Rồi một hôm, cơn bệnh hiểm
nghèo đã đến với vợ ông. Cô ấy nắm tay ông, trăn trối: "Anh Bằng! Kiếp
này…em…lỗi hẹn… Xin anh…tha lỗi…cho…em…! Xin…”. Cô ấy vĩnh viễn bỏ cha con ông
ra đi. Ông im lặng. Đôi mắt ông xa xăm như muốn nói cùng linh hồn vợ: "Hoa
ơi!
Sao em nở bỏ anh? Rồi ai cùng anh lo cho con? Ai cùng anh ngắm quỳnh khai hoa, hở em? Ai ? Ai? Sao đôi ta chẳng cùng nhau đi suốt cuộc đời này? Sao vậy hở em?”.
Sao em nở bỏ anh? Rồi ai cùng anh lo cho con? Ai cùng anh ngắm quỳnh khai hoa, hở em? Ai ? Ai? Sao đôi ta chẳng cùng nhau đi suốt cuộc đời này? Sao vậy hở em?”.
*
* *
Một năm, đôi lần, đợi đêm về,
đợi quỳnh nở hoa, ông đến thăm mộ vợ. Cả nghĩa trang chìm lắng trong đêm.
Quỳnh, ông đem tặng vợ thơm cả nghĩa trang. Đặt quỳnh hoa trên mộ vợ, ông thầm
khấn: "Hoa ơi! Anh đem quỳnh đến tặng em đây. Một chút lòng thành của anh,
xin em nhận lấy. Hoa ơi! Em có biết không? Có đêm, một mình nhìn hoa nở, anh
lại như thấy em cười cùng anh, thấy em mãi mãi ở bên anh. Giờ, sao em bỏ anh đi
mãi thế? Hoa ơi!”.
Sương đêm bàng bạc cả
nghĩa trang. Đóa quỳnh trên mộ chập chờn hình bóng vợ ông. Chập chờn hương thơm
của cô ấy trong không gian. Chập chờn cả tiếng vọng mơ hồ: "Anh Bằng! Xin
cảm ơn anh! Cảm ơn anh đã hiểu rõ lòng em. Kiếp này lỗi hẹn. Xin anh tha thứ
cho em!”.
Ông ngồi bên mộ như thể
hóa đá. Chợt có tiếng người phụ nữ bên tai: "Xin lỗi! Xin ông làm ơn cho
tôi chút lửa!”. Ông giật mình, chợt tỉnh: "Xin lỗi, bà là…”. Trong sương
đêm, giọng người đàn bà nhẹ nhàng: "Dạ, tôi tên là Hồng. Tôi đến thắp
nhang cho chồng. Chẳng may hộp quẹt của tôi hết gas lúc nào tôi chẳng hay. Thế ông
có lửa không?”.Ông lấy hộp quẹt từ trong túi của mình đưa cho người phụ nữ.
Giọng người đàn bà vẫn nhẹ nhàng: "Xin ông làm ơn quẹt giùm tôi!”. Ông bật
lửa lên. Trong ánh hồng chập chờn khuôn mặt dịu dàng của bà ấy…
Người đàn bà cắm nhang
trên mộ chồng và những ngôi mộ bên cạnh. Hương nhang hòa với hương quỳnh lan
tỏa cả nghĩa trang.
*
* *
Ông cùng bà Hồng đem quỳnh
trồng trên hai ngôi mộ trong nghĩa trang. Từ đó, khi quỳnh khai hoa, nghĩa
trang không còn bóng đêm. Người ta thấy những khi quỳnh nở, thấp thoáng bóng
dáng một người đàn ông và một người đàn bà thơm hương quỳnh hoa.
Tháng 10-2000
Phan Trang Hy
Phan Trang Hy
Địa chỉ: 81 Thạch Lam, quận Sơn Trà, Đà Nẵng
ĐT: 0935484482
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày
08.11.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Đà Nẵng ngày 14.12.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
QUÀ YÊU
Lệ thường, năm nào cũng vậy,
khoảng 20 đến 25 tháng Chạp, tôi cúng tất niên giã từ năm cũ, chuẩn bị đón Xuân
mới. Năm nào làm ăn kha khá, tôi thường mời dăm ba đứa bạn đến uống rượu mừng.
Còn thì tôi làm trầm trà. Rồi cũng qua chuyện. Nhưng những năm gần đây, đời
sống kinh tế ngày càng ổn định và phảt triển, cũng như bao người, gia đình tôi,
cứ năm hết Tết đến sắm sửa chút đỉnh tất niên. Tất nhiên là phải mời bạn bè đến
chung vui.
Điểm mặt, bạn bè của tôi hầu như
đủ cả: thằng Hồng, thằng Anh, thằng Tấn, thằng Lễ, thằng Lê, thằng An. Chỉ vỏn
vẹn chừng ấy đứa bạn. Tất cả có mặt. Tất cả đang nói chuyện. Và hầu như- qua
tôi- mọi người cũng đã biết nhau.
Bia được rót ra. Chúng tôi
nâng ly chúc tụng nhau. Đồ ăn được dọn sẵn. Vợ con tôi xuống nội dự tất niên ở
dưới đó. Chỉ còn chúng tôi với nhau. Năm nào cũng vậy, mỗi khi có chút
"sương sương”, vợ con tôi biết điều lắm, không bao giờ quấy nhiễu chúng
tôi, để mặc chúng tôi ăn uống, nói chuyện.
Độ vài ba ly, đứa thì mặt
tái, đứa thì mặt đỏ, nhưng tất cả hầu như đều muốn nói, đều muốn giơ ly chúc
tụng nhau. Thằng Hồng, thằng Tấn đi đến đâu là có nụ cười ở đó, nâng ly, giọng
oang oang đầy vẻ quan chức, đồng thanh cao hứng: "Xin chúc gia chủ tiền vô
như nước, tài lộc dồi dào!”. Tất cả vỗ tay, vỗ tay…
Lời qua tiếng lại, nào là
chuyện làm ăn, chuyện các bà xã, chuyện học hành con cái… Nói đi nói lại cũng
chừng ấy chuyện… Cái được vui nhất của chúng tôi là cười. Hầu như cả năm làm
ăn, không thời gian thăm hỏi nhau, không có chút rảnh để uống ly cà-phê tâm sự
cùng nhau, giờ được cười là quá tuyệt vời. Chúng tôi cười xả láng, cười như thể
trút tất cả phiền muộn để thành người cười.
Tự dưng lòng tôi có chút
bâng khuâng. Cũng nụ cười của tôi nhưng giờ có khác mọi khi. Giờ, tôi cười
thành tiếng, cười rũ rượi, cười không bị trói buộc bởi chuyện gì khác. Không
phải là nụ cười xã giao, không phải là nụ cười gượng, cũng không phải là nụ
cười khi được quà biếu- thi thoảng tôi cũng được quà biếu của phụ huynh, nhất
là ngày 20-11, cũng không phải nụ cười buồn khi xa nhau của những kẻ hữu tình.
Không biết các bạn ra sao
khi có người hiểu lòng mình, cùng mình uống đôi ly, cùng mình ngà ngà? Riêng
bọn chúng tôi như gần nhau hơn, như phơi lòng cho nhau. Và đến lúc này, chúng
tôi không muốn nói gì nữa ngoài chuyện văn nghệ, văn gừng, vui vẻ cuối năm.
Chuyện "sương sương” rồi hò hát, có khuấy động con phố nhỏ, trở thành
chuyện bình thường với mọi người ở quanh đây. Chúng tôi hát những bài hát thời
trai trẻ. Từ "Hát cho dân tôi nghe” đến "Bão nổi lên rồi”, từ
"Lá đỏ” đến "Sáu mươi năm cuộc đời”…, ai thuộc đoạn nào thì hát đoạn
đó. Không cần đúng nhịp, không cần đúng giai điệu; miễn là có hát, có nghêu
ngao cho đời vui, đời cười trong những ngày cuối năm.
Tôi chuếnh choáng, lấy đũa
gõ chén đề nghị mọi người cho tôi hát bài "Cô hàng nước”, coi như một kỷ
niệm đẹp của mình, như để nhớ một thời tôi sống thật với lòng mình. Hát xong,
tôi yêu cầu An: "Nè An! Bọn chúng tau muốn nghe mi đọc thơ!”. An là nhà
thơ, chúng tôi gọi nó như thế vì thơ nó có lúc được đăng báo, nó cũng in một
tập thơ tình ở thế kỷ trước. Mặt An tái. Nó lúng búng: "Ừ! Thì đọc. Nhưng
đợi mình chuẩn bị đã”. Nói xong, nó đứng lên xin phép vào phòng riêng của tôi.
Chúng tôi biết tỏng việc
chuẩn bị của nó. Mỗi lần nó đọc thơ thì như thể lên đồng. Phải có quần áo đặc
biệt và chỉnh tề, phải trịnh trọng như thể thổ lộ tình yêu với ai đó… Nói
chung, nó đọc thơ như đọc kinh trong lễ nhà thờ bằng niềm thành kính tận đáy lòng
của nó.
Chúng tôi vẫn cười, vẫn
huyên thuyên chi xứ. Và rồi An xuất hiện. Lần này, trước mắt chúng tôi không
phải là thằng An ngày thường. Nó mặc bộ quần áo đã cũ, nhưng sạch sẽ. Bộ y phục
không còn hợp thời. Thật là buồn cười cho cách ăn mặc của nó! Quần không ly; áo
như bó sát thân người. Chúng tôi vỗ tay chào mừng An, chào mừng thi sĩ.
An đằng hắng, rồi nâng ly
uống một hớp bia. Chậm rãi, nó nói: "Sau đây, tôi xin đọc bài thơ
"Quà yêu” mà tôi đã làm mới đây”. Chúng tôi vỗ tay.
Giọng thơ An trầm xuống.
Chúng tôi như cuốn vào từng câu chữ, từng lời An đọc. Đại khái, qua bài thơ,
chúng tôi hiểu được nỗi lòng riêng của nó. Mười lăm năm trước, nó yêu một cô
gái. Biết cô ấy có chồng con mà nó vẫn cứ yêu. Nó làm thơ tặng cô ấy. Bọn chúng
yêu nhau, quả là vậy. Nhưng tình yêu của chúng đẹp như những bài thơ làm đẹp
cuộc đời. Kể cũng lạ, yêu gì mà cứ hiền khô như bồ tát. Bạn bè biết vậy nên ai
cũng trân trọng mối tình "hi hữu” của chúng. Và rồi, mừng ngày nó được đi
dạy, cô ấy may tặng nó bộ áo quần, gọi là chút quà.
Và từ đó, chỉ khi đọc thơ
tình, An đều lấy bộ quần áo ngày xưa ra mặc như một thứ đồ lễ cho cuộc nguyện
cầu thơ. Lời thơ của An cứ trào ra, trào ra như thể lửa cháy bùng trên bờ tình
ái.
Tôi như cháy trong lời thơ
của An. Giọng An dứt khi nào tôi chẳng rõ. Tôi nhìn lại chính tôi. Tôi đang mặc
bộ quần áo mới may, món quà yêu của vợ tôi sắm cho tôi ngày Tết.
Giáp Thân-2004
Địa chỉ: 81 Thạch Lam, quận Sơn Trà, Đà Nẵng
ĐT: 0935484482
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày
08.11.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Đà Nẵng ngày 04.12.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
CÕI
THIÊN ĐƯỜNG RÁC
Bé Hoa vai mang cái bao,
tay cầm chiếc que sắt đang bươi rác từ chiếc xe vừa đổ xuống. Nó đang lượm từng
miếng ni lông bỏ vào bao. Ở bãi rác Khánh Sơn này, rác trở thành nguồn sống của
một số người, trong đó có gia đình Hoa.
Mặt trời lên cao. Ánh nắng
hầm hập từ trên cao đổ xuống. Hoa cảm thấy rát cả lưng. Rác gặp ánh nắng tạo
thành thứ mùi ươn ịch. Những người lượm rác như những con kiến đen bâu quanh gò
rác, phải hít thở trong không khí tràn ngập rác. Lâu ngày thành quen, và phần
phải thích nghi với cuộc sống, họ ăn, ngủ, sinh hoạt cùng với rác. Kể cả những
trẻ, trong đó có Hoa phải học đánh vần trong môi trường rác.
Được xã hội quan
tâm, Hoa được cấp sách vở, đến lớp tình thương kiếm chút chữ. Nhiều lúc ngồi
học, ngửi những trang vở trắng tinh, nó vẫn cảm thấy có một thứ mùi như chỉ
dành riêng cho những kẻ lượm rác. Dù mùi mực từ cây bút bi có pha hương thơm
của tuổi học trò vẫn không xua tan được mùi rác, kể cả những lúc nó cùng các
bạn liên hoan, được ăn bánh kẹo nhân ngày lễ. Mùi rác như hoà lẫn vào mùi bánh
kẹo. Mùi rác như quyện vào quần áo và thấm vào da thịt nó.
Nắng vẫn cứ đổ lửa. Hừng
hực nóng trên lưng. Nhưng cái bao đựng phế thải như vẫn còn nhẹ trên vai Hoa.
Rác càng ngày càng nhiều, nhưng tìm được những thứ bán có tiền từ rác đâu có
dễ! Hoa cặm cụi bươi, tìm và lượm, bỏ vào bao những phế thải có thể bán được.
Nắng vẫn dội xuống đầu nó.
Lại bươi, lại bới. Tay nó không nghỉ. Niềm ao ước, hy vọng loé lên từ những phế
thải. Đôi tay nó lại bươi, lại bới, lại tìm những ao ước, hy vọng trong rác.
Nắng làm nó mệt nhừ. Nó
muốn tìm chỗ để nghỉ. Giữa nắng, trước mắt nó, ẩn hiện và loé sáng những ngôi
sao nhấp nháy. Nó ngã qụy trên rác. Nó kêu lên một tiếng rồi lại im bặt. Lưng
nó bị một mảnh chai, chảy máu. Nó nằm im trên rác. Nắng rực. Cả bầu trời rực
sáng. Nắng tràn ngập quanh nó. Và dưới lưng nó như đầy hoa làm nệm cho nó nằm.
Hương thơm ngào ngạt toả quanh người nó. Chưa bao giờ nó nằm được êm lưng và
ngửi hương thơm như lần này. Nó như trong cõi thiên đường. Áo quần nó mới thơm.
Đồ ăn thức uống toàn là của ngon mà trước đây nó chưa hề thấy. Nó được biết
chữ, được đọc sách, được đánh đàn, được thực hành vi tính. Nó được xem múa lân,
được cầm lồng đèn chơi tận cung trăng. Nó được dạo chơi trên trời. Quả là nó
đang sống trên thiên đường.
Tối về. Hoa lên cơn sốt.
Cả da thịt nó hầm hập nóng như thể thân thể nó toả nhiệt trả lại cho đêm cái
nóng mà nó hấp thụ từ mặt trời lúc đứng bóng. Cả gia đình bu quanh nó. Nó mê
man, ú ớ:
- Gần tới Trung…thu…,
ba…mẹ… cho con… cái …lồng …đèn…Cho… con …đi …xem… múa…
Hôm sau nữa, Hoa được tắm
rửa sạch sẽ, được mặc bộ quần áo trắng mới. Người nó không còn mùi rác. Trên
đầu nó để một chén cơm đầy có cắm đôi đũa với quả trứng gà cùng ngọn đèn dầu
leo lắt…
Đèn Trung thu không đến
với nó. Múa lân không đến với nó. Nó đang về cõi thiên đường trên bãi rác trong
tiếng khóc của những người thân giữa đêm rằm tháng tám.
Hè 2001
Địa chỉ: 81 Thạch Lam, quận Sơn Trà, Đà Nẵng
ĐT: 0935484482
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày
08.11.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Đà Nẵng ngày 07.12.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
BẢNG
LẢNG NHƯ HOA MÙA XUÂN
Như lệ thường, gần đến
Tết, tôi chạy xe vòng quanh phố. Mọi thứ như đang vươn sức xuân. Mảng tường nhà
ai đang được sơn lại. Con phố nhỏ ấm và sáng hơn. Cờ hoa rợp phố như thể đất
nước được mùa.
Nhìn người ta mua sắm Tết
cũng là điều thú vị với tôi. Tưởng chừng như tôi đang sắm Tết. Nào là kẹo mứt;
nào là bánh chưng, bánh tét; nào là chả giò; nào là mọi thứ… Hàng hóa như theo
người về nhà vui Tết. Một chút rượu làm hân hoan mọi nỗi lòng trong năm mới;
một chút hạt dưa làm hồng môi ngọt của ai; và cả một chút tờ báo xuấn trải lòng
người cùng Tết…
Tôi gửi xe và vào chợ hoa
xuân. Đầy hoa! Hoa ngợp trước mắt tôi. Ngày thường dễ gì thấy hoa như thế! Ước
gì trên những con đường lớn Đà Nẵng cũng có hoa đẹp quanh năm! Chỉ toàn là cái
đẹp, toàn sự tốt lành đang ẩn hiện trên mỗi loài hoa, ai mà chẳng thích?
Tết đến mà có một chậu mai
chưng thiệt là tuyệt! Và tôi cố tìm cho được một chậu vừa ý mà lại vừa túi
tiền. Có mai, căn nhà như sáng thêm lên, như mùa xuân ngập cả nhà. Vợ chồng con
cái gắn chặt nhau hơn trong những lần mai nở. Và bè bạn nói những điều tốt đẹp
cho nhau khi Tết đến xuân về. Dại gì ta nói xấu nhau! Sao ta không nói tốt về
nhau, nếu được?
Đang chú mục vào môt chậu
mai, đang thưởng thức để tìm thêm cái đẹp, cái tốt trong mai để đem về còn khoe
với vợ con, bằng hữu. Bỗng nhiên, có cái vỗ vai của ai đó làm tôi giật mình.
Quay lại nhìn, tôi ngờ ngợ thấy gương mặt quen quen. Ấp úng, tôi hỏi:
"Ông … Ông là...?”. Người đàn ông giờ đối diện với tôi cũng ấp úng:
"Xin lỗi có phải… Ông là...”. Tôi thấy quen quá, nên nói luôn: "Tôi
là An”. Người đàn ông nói: "Tôi là Thanh, bạn cũ của ông đây!”. Hai chúng
tôi mừng nhau không thể tả.
Chúng tôi tìm một quán
nước gần đó để trò chuyện. Tôi được biết Thanh từ thành phố Hồ Chí Minh về quê
ăn tết. Hắn ta- tôi phải gọi như thế để nhớ lại cái thuở còn thanh niên- về quê
lần này tiện thể vừa để tìm người yêu cũ. Gần 20 năm mà hắn vẫn không
quên cô ấy dù đã cả hai đã có gia đình. Hắn chỉ cười buồn và trải lòng cho tôi
nghe.
… Kể từ dạo ấy, cái thưở
hai đứa hắn cảm lòng nhau. Lòng của hắn như có kiến đốt. Hắn ăn cũng không
ngon, hắn cười cũng chưa hết cở. Nói tương tư thì không đúng lắm, hắn chưa đến
nỗi phải nằm liệt gường bởi yêu. Vả lại, yêu mà bị bệnh thì ai dám yêu. Yêu như
thế quả là khổ sở. Mỗi lần ra đường, đầu óc hắn vẩn vẩn vơ vơ. Ngó thấy ai có
cái dáng dấp của cô ấy thì hắn mừng, tưởng như là gặp cô ấy. Nhiều khi buồn,
hắn bâng quơ lấy xe chạy vòng vòng khắp phố, không biết là chạy đi đâu. Hắn
chạy xe qua nhà cô ấy bao nhiêu lần, hắn cũng không nhớ hết. Mỗi lần như thế,
hắn đều ước ao gặp cô ấy. Điều ước ấy có lúc xảy ra nhưng là những lúc tình cờ.
Tình cờ mà gặp nhau, còn cố tình cũng chưa thể gặp nhau, âu đó cũng là cơ
duyên, hắn nghĩ vậy. Và chuyện của hắn, ban đầu cũng là sự tình cờ của những
lời bông đùa, như ngọn gió bỡn cợt trên cành hoa xuân, như ngọn nắng đùa trên
cỏ, như cánh diều bâng khuâng treo gió trên nắng mùa xuân và như sự bông đùa
của gái trai muôn thuở. Nhưng rồi, như sự ngẫu nhiên của trái tim, của sự chân
thành, chúng đã yêu nhau. Yêu nhau thôi, yêu nhau tha thiết, yêu bằng cả ngôn
ngữ của tình yêu, yêu bằng mắt bằng lời, bằng cả nỗi lòng thơ ca của chúng. Kể
cũng lạ, bình thường hắn ít viết, viết không nổi một câu thơ, thế mà khi chúng
yêu nhau thì không biết cớ sao, hắn lại làm thơ, làm rất nhiều thơ, mà
bài nào cũng được. Lần đầu tiên cô ấy đọc thơ hắn, cô ấy chỉ cười, nụ cười bây
giờ hắn vẫn còn có cảm giác ngọt lịm. Còn gì đẹp bằng khi có kẻ tri âm, tri kỷ.
Và mặc nhiên chúng coi nhau là tri kỷ, tri âm .
Không biết sao hắn biết cả
tên cha, tên mẹ, tên em trai, em gái của cô ấy, biết cả số nhà, số điện thoại.
Và cô ấy biết hắn thích gì. Kể cả chuyện riêng tư, cô ấy cũng kể hắn nghe.
Thế nhưng!
Đời mà! Biết bao sự
"thế nhưng” trong cuộc đời này. Chúng yêu nhau, quả là vậy! Thế nhưng
chúng vẫn không thể sống cùng nhau. Yêu nhau mà sống đuợc với nhau thì quả là
tuyệt rồi! Thế nhưng, đâu có phải yêu nhau là phải sống với nhau. Nhiều lúc hắn
tự an ủi cho riêng mình, như là một sự ru lòng mình yên tĩnh.
Đã 20 năm xa cô ấy. Hắn
đếm ngón tay là đã 20 năm; hắn tặc luỡi là đã 20 năm. Nơi cô ấy ở trước đây giờ
đã khác. Người cũng khác, toàn là người lạ. Hắn cảm thấy buồn buồn. Dễ gì gặp
cô ấy để khen cô ấy có cái áo đẹp; dễ gì gặp cô ấy để cả ngày hắn trọn niềm
vui. Như một định mệnh, lẽ hợp tan là thường tình của trời đất. Hắn biết cái
quy luật ấy, cố nín lặng chịu đựng nỗi nhớ của riêng mình.
Đặt ly cà phê xuống bàn, tôi hỏi hắn:
Đặt ly cà phê xuống bàn, tôi hỏi hắn:
- Thế ông không yêu vợ ông
sao?
Hắn trố mắt nhìn tôi,
chửng hửng:
- Sao không yêu? Không yêu
vợ con thì yêu ai?
Tôi gặng hỏi:
-Thế sao ông còn nhớ cô
ấy?
Giọng hắn như lạc vào cổ
tích:
- Kỉ niệm, ai mà không
nhớ! Vả lại, cái tôi của thằng đàn ông đầy tham lam lắm ông ạ! Nhất là trong
tình yêu! Có vợ có con rồi mà vẫn muốn có người yêu như là sự khẳng định mình
với trần gian này, không biết tôi nói như thế có quá không?
Im lặng…
Và tôi. Tôi không thể giấu
lòng mình. Tôi cũng có vợ có con rồi; tôi cũng muốn quên "cô ấy của tôi”,
nhưng đâu dễ gì quên. Chỉ có kẻ vô tình mới không để ý đến nhau, mới dễ quên
nhau. Và chỉ có kẻ dửng dưng, đâu cần ai để nhớ!
Tôi nhớ như in, hầu như
ngày nào tôi cũng ghé quán cà phê cô ấy. Nắng cũng như mưa, thời tiết dẫu thay
đổi nhưng tôi cứ như là đúng hẹn cùng cô ấy. Chỉ có thế thôi mà tôi đã cảm lòng
bởi sự chân thành của cô ấy. Rồi, Đà Nẵng chỉnh trang đô thị. Nơi cô ấy bán
được giải tỏa để mở rộng đường. Cô ấy không còn bán cà phê, cô ấy chuyển sang
làm nghề khác. Tôi không còn cớ để gặp cô ấy. Chỉ còn nỗi nhớ xốn xang. Nhiều
lúc đi trên đường, bất chợt, tôi thấy một số xe của ai đó, nếu chỉ cần có một
con số hoặc chỉ cần màu xe gần giống xe cô ấy là tôi lại nghĩ đến cô ấy, hoặc
nhiều lúc tôi làm thơ, thơ đâu chẳng thấy, chỉ thấy trên giấy tòan là tên cô
ấy.
Tôi vẩn vơ nghĩ về cô ấy,
nghĩ về tình yêu. Tình yêu cũng như hoa kia. Bạn có thể thích hoa, nhưng đâu có
thể đem về nhà tất cả hoa mình thích.
Chỉ cần một cành hoa, nhà
bạn cũng Tết rồi!
Tôi bắt tay chào Thanh.
Tôi vào chợ hoa xuân. Trên đường về nhà, trên xe, một chậu mai vàng cùng tôi
chào đón mùa xuân.
Tháng Giêng-2009
Địa chỉ: 81 Thạch Lam, quận Sơn Trà, Đà Nẵng
ĐT: 0935484482
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày
08.11.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Đà Nẵng ngày 07.12.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Phan Trang Hy
Sinh
năm 1956
Quê:
Đại Lộc, Quảng Nam
Hiện
ở Đà Nẵng
ĐT:
0935484482
Email: phantranghy@gmail.com
_____
NGƯỜI
ĐÀN BÀ BÁN LỘC
(Tập
truyện Người thầy dạy búp bê)
Giờ giao thừa. Những tiếng
chuông rung lên lay động màn đêm. Tiếng còi tàu báo hiệu năm mới. Những chòm
pháo bông sáng rực cả khoảng trời. Mùa xuân đang đến.
Bà Ba sửa soạn lại những
nhánh trầu, xếp chúng vào mủng. Năm mới đến, thế mà, bà vẫn cứ đều đều công
việc của mình.
Bà làm nghề bán trầu cau
hàng chục năm nay. Bà muốn đem lại nụ cười đỏ như son cho các bà, nên bà chọn
nghề này. Hằng ngày, cứ sáng sớm là bà gánh hàng lên chợ. Vẫn chỗ ngồi khép nép
giữa những đồ hàng đúng kiểu của cái chợ mua giành bán giựt, bà Ba đặt lên
chiếc mủng những lá trầu, những vôi, những hột cau khô. Bà lầm lũi làm công
việc của người già khi còn đủ sức để lo cho cái ăn, cái mặc của chính mình. Bà
không đon đả mời mọc khách hàng. Khách của bà toàn là những người quen, gần như
là những bạn già với bà. Lâu lâu mới có một vài đứa trẻ đến mua hàng của bà về
cho nội, cho ngoại.
Thắp nén nhang làm lễ Hành
khiển, bà khấn thầm: "Con là Nguyễn Thị Ba, năm nay 77 tuổi, làm nghề bán
trầu cau, cư ngụ tại phường Phước Mỹ, bày biện hương đèn, hoa quả, trà bánh,
cáo với các thần cho con được khỏe trong năm nay”. Bà biết rất rõ sức khỏe của
mình. Tuổi già sức yếu là chuyện thường tình, ai cũng phải mang. Nhiều lần, đứa
con trai muốn bà về sống với nó, nhưng bà từ chối. Bà không muốn làm phiền con
cháu.
Nhìn khói hương bay nhẹ,
bà thanh thản trong lòng, bà thầm nghĩ: "Cả cuộc đời mình, mình không làm
điều gì xấu. Ước gì mình cứ khỏe để nhìn con, nhìn cháu nên danh, nên phận là
mình mãn nguyện”.
Đèn điện khắp xóm bật sáng trưng chào xuân mới. Mọi người đều thức đón xuân. Chiếc cát-xét từ nhà ai vẳng lên khúc nhạc Hái lộc đầu năm. Bài hát làm bà nhớ lại thời con gái. Hồi đó bà thường đi lễ chùa hái lộc đầu xuân. Chỉ còn lại những kỷ niệm trong ký ức.
Đèn điện khắp xóm bật sáng trưng chào xuân mới. Mọi người đều thức đón xuân. Chiếc cát-xét từ nhà ai vẳng lên khúc nhạc Hái lộc đầu năm. Bài hát làm bà nhớ lại thời con gái. Hồi đó bà thường đi lễ chùa hái lộc đầu xuân. Chỉ còn lại những kỷ niệm trong ký ức.
Bà dậy thật sớm, sớm hơn
ngày thường, gánh trầu rời khỏi nhà…
Bà xếp những ngọn trầu,
toàn là trầu tươi xanh trên mủng, rồi ngồi chờ đợi trước cổng chùa.
Nhiều người đi lễ đầu năm. Áo quần mới, lời nói tốt đẹp rộn lên. Ngày mới của năm mới bắt đầu.
Sương sớm thầm nhẹ trên những ngọn trầu. Sương tươi xanh trên mủng trầu của bà.
Nhiều người đi lễ đầu năm. Áo quần mới, lời nói tốt đẹp rộn lên. Ngày mới của năm mới bắt đầu.
Sương sớm thầm nhẹ trên những ngọn trầu. Sương tươi xanh trên mủng trầu của bà.
Một người đến chọn lộc đầu
năm.
Hai người, rồi ba người đến mua
lộc…
Ai cũng mua lộc đầu năm.
Sương xuân vẫn còn rơi.
Chỉ còn lại đôi mủng trống.
Bà lặng lẽ đếm những tờ
giấy bạc mới tinh. Một ngàn, hai ngàn, ba ngàn… Bà mở chiếc túi vải giắt trong
lưng quần ra, rồi bỏ tiền vào.
Trên đường về nhà, bà nhai
tiếp miếng trầu. Nụ cười già của bà đỏ thắm. Tiếng nhạc xuân vẳng đưa: Mùa
xuân! Một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời…
Những đứa cháu của bà sà
vào lòng bà. Bà rút những tờ giấy bạc mới tinh, những đồng tiền bà bán lộc đầu
năm lì xì cho bọn trẻ…
____________________________________________________
CÁNH
VẠC BÊN ĐỜI
(Tập
truyện Người thầy dạy búp bê)
Cầm giấy mời trên tay, hắn
mừng là các bạn cũ cùng lớp cách đây 25 năm còn nhớ tới hắn. Nước mắt hắn như
muốn ứa ra. Cảm động? Hay một lẽ gì khác ? Hắn nhẩm đọc lại giấy mời. Nghĩ tới
bạn bè cùng lớp, hắn thấy như trẻ lại. Cái tuổi 40 thấm cuộc đời, thấm nỗi xót
xa tuổi dại, như cái thuở niên thiếu, như cái thời ngây dại thư sinh, hắn thầm
nghĩ về những đứa bạn.
Hắn học cũng không đến nỗi
tồi. Cũng gọi là bằng bạn bằng bè. Có lần, cô ấy đến nhà hắn mượn vở, ấy là
những khi cô ấy nghỉ ốm. Cô ấy không dám vào nhà hắn và hắn phải cầm vở ra đưa
tận tay. Khi cô ấy trả vở, hắn cầm quyển vở trên tay, lật từng tờ, xem thử cô
ấy có để thứ gì trong vở không. Vẫn những nét chữ không được đẹp lắm của hắn!
Thế mà, hắn vẫn thấy ánh mắt của cô ấy nhìn những con điểm thán phục.
Hắn có khiếu thẩm mỹ, chịu
khó và lại hiền nên đứa bạn nào cũng thích đến nhà cùng hắn làm báo. Tờ báo của
tổ hắn hoàn thành như là một kỳ công của ban biên tập, của một tòa soạn báo chứ
chẳng chơi đâu. Và kể từ đấy, hắn nghĩ chắc là hắn sẽ theo nghề làm báo, chỉ có
làm báo mới xứng nỗi đam mê của hắn.
Rồi hắn đậu Đại học Quảng
Đà. Cô ấy cũng học đại học cùng trường với hắn. Hắn không học nghề báo. Hắn
phải học cái ngành Kinh thương. Hắn cũng không lấy làm buồn. Hắn mơ màng, vẽ ra
những ước mơ về cuộc đời. Ôi thôi đủ thứ của thời sinh viên. Đến bây giờ, nhiều
lúc nhớ lại, hắn lấy làm tức cười cho sự mơ mộng không thực ấy.
*
Tháng Ba, 1975. Hắn cùng
các bạn sinh viên giúp người gặp nạn. Tiếng súng, tiếng đại bác nổ bất cứ thời
điểm nào. Ban Mê Thuột được giải phóng. Rồi quân Giải phóng đánh Huế. Đà Nẵng
bị quân Cách mạng bao vây. Cô ấy đến tìm hắn.
- Anh Thanh, em sợ quá!
Anh có đi với em không?
- Đi đâu?
- Đi Mỹ.
- Không được! Không lẽ anh
bỏ ba mẹ anh và các em?
- Anh không thương em!
- Sao không thương?
- Thương, sao không theo
em?
*
Hắn và cô ấy đã khóc.
Ngày 29-3-1975, Đà Nẵng
được giải phóng. Cô ấy đã ra đi. Hắn buồn vì cô ấy bỏ hắn mà đi, bỏ cái thành
phố nghèo mà đi. Hắn đâu còn được thấy cô ấy nữa.
Hắn vào ngành Sư phạm vì
Đại học Quảng Đà bị giải tán. Cuộc đời bốc hắn từ cái chỗ tưởng là ít nhất cũng
là Phó Giám đốc một ngân hàng nào đó sang làm một anh giáo. Quả là hắn cũng còn
may so với một số người, mới được vào Sư phạm.
Được học dưới mái trường
Sư phạm, hắn tự an ủi là có nghề để sống, có việc để làm. Và rồi, nghề nghiệp
đã rèn cho hắn yêu nghề hay vì một lẽ gì khác? Nhiều lúc hắn tự nhủ, có lẽ tuổi
học trò quá dễ thương, quá đẹp giúp hắn yêu nghề, và cũng có lẽ bóng dáng
"như cánh vạc bay” của cô ấy thuở cắp sách đến trường vẫn cứ ám ảnh hắn,
giúp hắn có nghị lực và tình yêu trong nghề nghiệp? Hắn không dám khẳng định vì
lý do gì mà hắn yêu nghề đến vậy.
Hắn cùng các bạn ôn lại
cái thời đi học. Nhưng tâm trí hắn như để đâu đâu.
- Thanh, mày làm gì mà đờ
đẫn vậy?
- Đâu có.
Bạn hắn, thằng An, đập vào
vai hắn, nói:
- Mơ mơ màng màng thế, mà
không có à?
Cười gượng, hắn nói:
- Tại tau đang tìm ý thơ.
An biết hắn tìm ý thơ để
làm gì rồi.
- Uống cà phê đi mày! Uống
rồi hẵn làm thơ!
Được các bạn khích lệ,
mừng mừng tủi tủi, hắn đọc bài thơ về thuở học trò, về tình yêu tuổi học
trò.Tình yêu tuổi học trò nhẹ nhàng như cánh vạc bay. Bạn bè vỗ tay tán thưởng.
Cô ấy cũng vỗ tay tán thưởng.
Tan tiệc, cô ấy đến bên
hắn. Cô ấy lặng im. Nhưng hắn nghĩ là cô ấy đang nói với hắn: "Sao khi
trước anh không theo em? Mà thôi! Giờ thì mỗi người một cảnh. Em không trách
anh đâu. Mãi mãi tình yêu thuở học trò vẫn đẹp phải không anh? Anh biết không,
em về nước đợt này là nhằm đầu tư mở nhà máy sản xuất thiết bị điện tử. Em muốn
nước mình giàu có lên. Em cũng muốn anh làm thơ nữa!”.
Nhìn ánh mắt cô ấy, hắn đề nghị:
Nhìn ánh mắt cô ấy, hắn đề nghị:
- Mình đi uống cà
phê đi em!
- Vâng!
Tiếng nhạc của thuở
học trò vẳng ra từ chiếc loa thùng: Gọi nắng trên vai em gầy, đường xa áo
bay…
Đối diện hắn không là cô
ấy của ngày xưa. Chỉ có dáng dấp của người phụ nữ hơi mập. Hắn hát theo lời bài
hát, hát như những lần hắn đàn và hát cho vợ hắn nghe, người vợ có đôi vai gầy
thích nghe hắn hát tình ca của thời trai trẻ.
____________________________________________________
ĐAU ĐÁU HOÀNG SA
Kính
tặng các chiến sĩ Hoàng Sa, Trường Sa
Lệ thường, ngày nào cũng vậy, lão Ban lại ra biển. Không nhìn thấy biển là lão cảm thấy sao sao ấy. Lão dễ nổi cáu với vợ. Chỉ cần nhìn thấy biển, nhìn ra ngoài khơi xa là lão mới dịu đi những cáu ghét của cuộc đời. Lão đi biển không phải để nhìn thiên hạ tắm, không phải tập thể dục dưỡng sinh, cũng không phải bông lơn chọc ghẹo những mụ hồi xuân. Lão nhìn biển như thể cho vơi bớt nỗi lòng của mình, khi chẳng biết tỏ cùng ai. Thường là lão đi một mình. Nhưng lần này lại khác. Lão cùng thằng cháu nội ra biển chơi.
Nhìn thằng cháu đang lượm
những vỏ ốc, vỏ sò, những con sao biển, lão thấy hồn mình như nhập vào sóng
biển. Vẫn tiếng sóng vỗ bờ, vẫn tiếng rì rào của đại dương, của hồn biển Đông
muôn thuở. Vẫn đâu đây từ cõi sơ khai nước mặn, trời nồng. Bỗng thằng Phong-
thằng cháu nội của lão- lên tiếng:
- Nội ơi! Nội coi nè! Vỏ
ốc này đẹp quá, nội ơi!- Vừa nói, nó vừa chạy tới khoe lão.
- Ừ! Đẹp quá!- Lão khẽ
nói.
Nhìn vỏ ốc trên tay thằng
Phong, lão lại nhớ cái vỏ ốc mà lão đã tặng cho Vũ- ba của thằng Phong. Quá khứ
ấy như hiện ra trước mắt…
Lão làm sao quên được cái
ngày lão được nghỉ phép về thăm gia đình ở Đà Nẵng. Được trở về đất liền, được
thăm vợ, thăm con- thăm cái thằng con trai, cái thằng con mà lão chưa biết mặt,
lão cảm thấy sao quá tuyệt vời. Nằm thao thức, nghe sóng, gió mang vị mặn trong
đêm, lão không ngủ được. Ngày mai là có tàu vào đất liền. Mừng thật! Vui thật!
Nghĩ đến vợ con, lão lục tìm trong đầu nên tặng vợ, tặng con những gì? Ở trên
quần đảo này có gì ngoài phân chim, cát vàng, san hô, ốc biển…Tặng gì đây cho
vợ, cho con?
Vừa về đến nhà, lão chào
mọi người. Vợ lão ôm chặt lão, khóc: "Sao anh không ở ngoài đó? Anh về làm
gì?”. Lão biết vợ quá thương mình nên nói vậy thôi. Chính vợ lão đã khuyên lão
ra đảo nhận công tác khí tượng kia mà.
Nhìn thằng Vũ nằm trên
nôi, lão giơ hai tay ra, vừa vỗ vỗ vừa kêu lên: "Ba đây con! Cho ba bồng
tí!”. Thằng Vũ nằm trong nôi khóc ré lên. Thương con, lão muốn bồng con, ôm
con. Nhưng mỗi lần lão bồng nó thì nó không chịu. Một bữa, vợ lão lo sắm sửa
một ít đồ dùng để lão ra lại đảo, bèn giao con cho lão. Thằng Vũ cứ khóc, không
chịu cho lão bồng. Lão lấy những thứ đồ chơi bằng nhựa cho nó chơi, nhưng nó
vẫn không chịu nín. Cực chẳng đã, lão bồng con và dỗ. Lão kêu kêu, cười cừời;
lão làm đủ trò; nhưng thằng bé vẫn cứ khóc. Khóc miết rồi cũng mệt. Mệt nên nó
nín. Rồi nó đưa mắt nhìn lão, nhìn khắp phòng. Lão thấy mắt thằng bé nhìn các
thứ để ở trong tủ gương như muốn khám phá điều gì đấy. Nhìn con, lão lấy làm
lạ. Những thứ trong tủ có gì lạ đâu. Toàn san hô, ốc biển…những thứ lão mang từ
đảo về. Lão bồng con đứng trước tủ. Thằng bé cười - lần đầu nó nhoẽn miệng
cười. Lão lấy mấy thứ nhỏ xinh cho thằng bé chơi, nhưng nghĩ lại, lão sợ thằng
bé chơi, rồi nuốt bậy, nên lão cất. Thằng bé lại khóc. Cuối cùng, lão chọn cho
con một con ốc to bằng nắm tay. Đây là con ốc lão lượm trên đảo đúng vào lúc
nghe tin vợ ở nhà sinh thằng Vũ. Thằng bé cầm con ốc, ngậm vào miệng ra chiều
thích thú.
Kể cũng lạ! Từ khi chơi với con ốc, thằng bé lại muốn lão bồng, lão bế. Chỉ trừ lúc nó thèm sữa, còn thì nó đòi lão bồng chơi cùng con ốc cho bằng được. Nó cũng thích lão hát cho nó nghe, nó cũng thèm lão hôn nó…
Kể cũng lạ! Từ khi chơi với con ốc, thằng bé lại muốn lão bồng, lão bế. Chỉ trừ lúc nó thèm sữa, còn thì nó đòi lão bồng chơi cùng con ốc cho bằng được. Nó cũng thích lão hát cho nó nghe, nó cũng thèm lão hôn nó…
… Lão vẫn nặng nợ với đảo.
Đảo là nhà, là phần cuộc sống của lão. Những lúc thương con, nhớ vợ, lão chỉ
biết ngồi trên bãi san hô nhìn vào đất liền. Làm sao lão quên được những hoàng
hôn. Màu sắc kỳ ảo vàng đỏ tím xanh cả biển. Mặt trời lặn dần xuống biển như
thể thiên nhiên đang cất giấu viên ngọc hồng vào trong rương vũ trụ. Chỉ còn
thứ ánh sáng diệu kỳ trên biển. Và trong lão sáng lên thứ ánh sáng của đêm, thứ
ánh sáng gia đình, quê hương… Lão thèm được nhìn vợ, nhìn con, nhìn những gì
thân thương của mình. Lão quên sao được những lần đem thư của con ra đọc. Ngó
thế mà thằng Vũ cũng đã lớn rồi. Học lớp 11.Thư gửi cho lão, lúc nào nó cũng
nhắc đến con ốc mà lão cho nó. Cũng từng ấy câu chữ, nó cứ viết vào những lá
thư gửi cho lão: "Ba biết không? Bạn bè con, đứa nào cũng trầm trồ vì con
có con ốc đẹp. Con đã từng khoe với bọn chúng là con ốc mang cả hình hài của
quần đảo Hoàng Sa. Bọn chúng không tin. Nhưng con tin là thế!”.
Lão cũng tin là thế! Lão
tin quần đảo Hoàng Sa là máu thịt của quê hương. Làm sao lão quên được có lần
lão đã dắt thằng Vũ về quê ở tận Quảng Ngãi. Trong lần giỗ chạp, ông tộc trưởng
họ Đặng của lão đã từng nhắc rằng lão là kẻ hậu sinh đang kế nghiệp tiền nhân.
Mở gia phả, lão rưng rưng đọc những dòng chữ ghi công tích của họ Đặng. Vua
triều Nguyễn đã từng phái dòng tộc lão vượt đại dương trấn giữ Hoàng Sa. Lão
cảm thấy như máu tiền nhân đang chảy trong cơ thể, tăng thêm nghị lực, tăng
thêm tình yêu cho lão trên đảo Cát Vàng. Làm sao lão quên được lúc cúng tế, bà con
tộc họ đã bỏ thức ăn, sau khi xong lễ, vào một chiếc thuyền làm bằng bẹ chuối,
thả xuống biển. Mũi thuyền hướng về Hoàng Sa như thể rằng Hoàng Sa không thể
quên trong hồn người đã khuất. Trong tâm tưởng lão, lúc nào chiếc thuyền bẹ
chuối ấy cũng lớn như những chiếc thuyền của dòng tộc họ Đặng, họ Trần, họ Lê…ở
quê lão vâng lệnh triều đình, tiến thẳng Hoàng Sa… Trong lão như trỗi dậy những
bài văn tế các thủy binh thời ấy. Nhận lệnh vua, nặng nợ nước nhà, buổi ra đi
đâu dễ dàng. Sóng gió trùng khơi, thủy quái dẫy đầy, đến Hoàng Sa đâu dễ. Các
thủy binh được tế sống lúc lên đường như thể rằng quê hương vẫn nặng nợ với
những người con. Lão bùi ngùi, run rẩy như có ai đang bóp nghẹt trái tim. Lão
khóc…
Và lão đã khóc rất nhiều khi nghe tin thằng Vũ hy sinh trên Trường Sa năm 1988. Lão không ngờ như vậy. Kỷ vật cuối cùng của con lão là quyển nhật ký. Lão đã đọc đi, đọc lại hoài. Những dòng cuối cùng lão như thuộc lòng: "Ba ơi! Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu. Dẫu có hy sinh, con vẫn không hối tiếc điều gì vì đã thực hiện theo lời ba dạy.”. Đến giờ, lão vẫn không biết mình dạy con điều gì. Lão chỉ nhớ những việc làm, những tình cảm gắn bó với Hoàng Sa. Không biết có phải những điều ấy là lời lão dạy với con? Có lần thằng Vũ cầm con ốc đố lão - lúc nó vừa thi xong tú tài: "Đố ba, trên mình con ốc này có gì?”. Lão ngạc nhiên sao con lão đố như vậy. Nhìn con ốc, lão cười đáp: "Thì chỉ những chấm, những chấm màu vàng nâu”. Thằng Vũ cũng cười, nói: "Rứa con đố làm gì!”. Rồi nó chỉ từng cái chấm, hỏi lão có giống những đảo mà lão đã từng ở không, nhiều chấm có phải là quần đảo không… Và rồi nó kết luận: "Trên mình ốc có in hình quần đảo Hoàng Sa”. Kể cũng hay hay. Từ đó, nó để con ốc vào chỗ trang trọng nhất. Khi nhập ngũ, đi bộ đội hải quân, nó xung phong đi Trường Sa. Lão không gàn con. Nó cũng có tình yêu đảo như lão kia mà!
Và lão đã khóc rất nhiều khi nghe tin thằng Vũ hy sinh trên Trường Sa năm 1988. Lão không ngờ như vậy. Kỷ vật cuối cùng của con lão là quyển nhật ký. Lão đã đọc đi, đọc lại hoài. Những dòng cuối cùng lão như thuộc lòng: "Ba ơi! Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu. Dẫu có hy sinh, con vẫn không hối tiếc điều gì vì đã thực hiện theo lời ba dạy.”. Đến giờ, lão vẫn không biết mình dạy con điều gì. Lão chỉ nhớ những việc làm, những tình cảm gắn bó với Hoàng Sa. Không biết có phải những điều ấy là lời lão dạy với con? Có lần thằng Vũ cầm con ốc đố lão - lúc nó vừa thi xong tú tài: "Đố ba, trên mình con ốc này có gì?”. Lão ngạc nhiên sao con lão đố như vậy. Nhìn con ốc, lão cười đáp: "Thì chỉ những chấm, những chấm màu vàng nâu”. Thằng Vũ cũng cười, nói: "Rứa con đố làm gì!”. Rồi nó chỉ từng cái chấm, hỏi lão có giống những đảo mà lão đã từng ở không, nhiều chấm có phải là quần đảo không… Và rồi nó kết luận: "Trên mình ốc có in hình quần đảo Hoàng Sa”. Kể cũng hay hay. Từ đó, nó để con ốc vào chỗ trang trọng nhất. Khi nhập ngũ, đi bộ đội hải quân, nó xung phong đi Trường Sa. Lão không gàn con. Nó cũng có tình yêu đảo như lão kia mà!
Kể từ ngày thằng Vũ mất,
lão như mất hồn. Cứ những đêm rằm, mồng một, lão lại ra biển. Dù nắng, dù mưa,
lão vẫn ra biển thắp ba cây nhang hướng về Hoàng Sa, Trường Sa mà vái. Ngoài
kia, những con thuyền thả lưới, những chiếc tàu đánh bắt cá sáng rực những ánh
đèn như thành phố nổi trên biển. Trước mắt lão hiển hiện những ngư dân cần mẫn,
chăm chỉ, chịu khó chịu thương. Trước mắt lão hiện lên những chàng trai giữ
đảo, có cả hồn của những người như con trai lão cùng tiền nhân giong thuyền
xuôi ngược biển Đông. Nhiều lúc lão lẩm bẩm một mình như đọc thơ về Hoàng Sa…
Và rồi thành phố Đà Nẵng
bổ nhiệm Chủ tịch huyện đảo Hoàng Sa. Lòng lão trỗi dậy thứ tình yêu biển đảo
mà bấy lâu nay ẩn trong tiềm thức. Người họ Đặng hôm nay lại nối tiếp họ Đặng,
họ Trần, họ Lê… ở quê lão, như cái thuở cha ông vâng lệnh triều đình ra đảo,
gánh trách nhiệm với Hoàng Sa. Lão thấy mình như trẻ lại, khỏe lại và vui hơn.
Không vui sao được khi đất đảo quê hương được nhắc đến? Không vui sao được khi
có người dám nhận trách nhiệm nặng mang? Lời thằng Vũ trong nhật ký sáng rực
trong tâm trí lão: "Biển đảo là biển đảo của quê hương do cha ông để lại
cho con cháu đời sau. Phải giữ để khỏi có tội với tiền nhân, với con cháu…”.
Tiếng thằng Phong như đánh
thức lão:
- Nội ơi! Mai con phải vào
thành phố Hồ Chí Minh.
- Ở thêm ít ngày, được
không? - Lão hỏi như trách .
- Con phải vào để thầy
hướng dẫn làm luận văn .
- Thế thì phải vào thôi!
Mà này, con làm đề tài gì?
- Dạ! Con làm đề tài về
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa trong mối quan hệ với biển Đông.
Trầm ngâm một lúc, lão lên
tiếng:
- Gay đó con! Nhưng phải
gắng thôi.
- Dạ! Con nghe lời nội.
Hai ông cháu cùng dắt tay
xuống tắm. Nước biển tắm mát cơ thể lão, cơ thể cháu lão. Nước biển Mỹ Khê
giống như nước biển Hoàng Sa. Lão nghe mằn mặn bờ môi. Lão đứng lên. Mặc từng
cơn sóng đổ trên người, lão nhìn ra xa khơi. Đau đáu là Hoàng Sa trong nỗi nhớ…
Tháng Năm, 2009
Địa chỉ: 81 Thạch Lam, quận Sơn Trà, Đà Nẵng
ĐT: 0935484482
©
Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại ngày
08.9.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP. Đà Nẵng ngày 15.11.2010
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét