Đọc thơ lên trời & du địa phủ của Thái Quốc Mưu – Bài viết Châu Thạch
Thứ Tư, 17 tháng 9, 2014
Chẳng biết nhà thơ Thái Quốc Mưu có phải là tiên là Phật hay không?. Nếu không phải là tiên là Phật thì đích thì ông là anh chàng ngông thuộc hàng bậc nhất thế gian. Bởi vì ông làm thơ lên trời nhiều lần mà xuống địa phủ cũng lắm khi. Thường thường, những người ngông thì hay kiêu ngạo khiến cho trời không dung đất không tha nhưng cái ngông trong thơ Thái Quốc Mưu lại làm cho người vui mà trời cười thoải mái.
Thông tin cá nhân:
(VanDanViet)
Tác giả Châu Thạch
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
Tên thật: Trương Văn Trạn
Quê: Quảng Nam
Chỗ ở hiên nay: 75 Phan Kế Bính, TP. Đà Nẵng
Điện thoại: 0511.3894610
Email: truongvantran@hotmail.com
_____
ĐỌC THƠ LÊN TRỜI & DU ĐIA PHỦ CỦA THÁI QUỐC MƯU
Chẳng biết nhà thơ Thái Quốc Mưu có phải là tiên là Phật hay
không?. Nếu không phải là tiên là Phật thì đích thì ông là anh chàng ngông
thuộc hàng bậc nhất thế gian. Bởi vì ông làm thơ lên trời nhiều lần mà xuống
địa phủ cũng lắm khi. Thường thường, những người ngông thì hay kiêu ngạo khiến
cho trời không dung đất không tha nhưng cái ngông trong thơ Thái Quốc Mưu lại
làm cho người vui mà trời cười thoải mái.
Đọc cái ngông của Thái Quốc Mưu nhiều khi
ta cũng thấy mình lâng lâng siêu thoát như cùng ông viếng Ngọc Hoàng, thăm địa
phủ.
Trước hết hảy thưởng thức vài bài thơ tiêu
biểu mà ông kể chuyện lên trời:
Ngọc Hoàng hạ chiếu bảo về chầu
Vội lái phi thuyền diện kiến tâu
Quan chức ngồi nghe ngàn mấy trự
Bệ tiền tấu rỗi mỗi thằng tao
Cái tình dân tộc còn đâu - Chán!
Hai chữ nghĩa nhân cũng hết - Sầu!
Thượng Đế nghe xong liền vỗ án...
Tây Vương Thánh Mẫu thét: “Đau đầu!”
Hai câu mở của bài “Lão điên chầu trời” đã
cho ta thấy hai cái ngông của nhà thơ. Thứ nhất Thái Quốc Mưu tự nhận mình là
quan chức nhà trời, vì chỉ có quan chức nhà trời thì mới lìa thế bay lên khi
nhận chiếu chỉ Ngọc Hoàng. Người trần mắt thịt của chúng ta chỉ bỏ thế gian khi
Satan mang lưởi hái tử thần đến điều đi trong đau khổ. Cái ngông thứ hai là
Thái Quốc Mưu tự cho mình là phi hành gia số một trần gian, vì cho đến nay chỉ
có người cởi phi thuyền bay đến cung trăng chứ chưa hề có ai cởi phi thuyền mà
lên đến tận trời, nơi thượng đế định cư. Hai câu mở tưởng là Thái Quốc Mưu chỉ
nói đến hai cái ngông để cười, nhưng thật ra còn thêm một cái ngông ẩn trong
hai câu thơ đó vừa cao siêu vừa thú vị. Đó là Thái Quốc Mưu tự cho mình có hai
thân vị trong một con người. Thân vị là tiên khi ông nhận chiếu chỉ Ngọc Hoàng
và thân vị là người khi ông cởi chiếc phi thuyền bay lên. Tiên thì chỉ về trời
bằng mây hay bằng cá chép chớ không cởi phi thuyền mà đi được. Người thì chẳng
bao giờ nhận được chiếu chỉ của Ngọc Hoàng triệu hồi về lại thiên cung. Thái
Quốc Mưu được về trời, lại vể trời bằng phi thuyền của con người chế tạo, cho nên
ông có hai thân vị của thánh thần và của nhân gian. Vì mang hai thân vị đó nên
qua hai câu thơ ở vế trạng, nhà thơ Thái Quốc Mưu coi mình như bình đẳng với
thánh thần nhà trời mà phát ngôn bằng những từ của giới bình dân trần thế:
Quan chức ngồi nghe ngàn mấy trự
Bệ tiền tấu rỗi mỗi thằng tao
“Mấy trự” là mấy đồng tiền lẽ. “Thằng tao”
thì thằng là tự coi mình tầm thường, “tao” là xưng hô với người ta không tôn
trọng.
Quan chức nhà trời ngồi trên ngàn vị nhưng
được xem chỉ như là “mấy trự”, có nghĩa là giá trị của họ chỉ bằng bạc cắt, bạc
kênh thôi. “Tấu rỗi” có nghĩa thong thả tâu, lai rai trình tấu. Hai câu trạng
chứng tỏ tại sân nhà trời, Thái Quốc Mưu và thánh thần không có ai trên ai
dưới, phẩm cách như nhau. Chữ “tấu” ở đây chỉ là cách nói lịch sự tôn trọng đám
đông. Cách chơi chữ trong hai câu thơ nầy rất hay vì tác giả tự nhún nhường hạ
mình xuống làm “thằng” sau khi xem thường gọi đối phương nhà trời là ‘trự” và
xưng “tao” với họ. Quan chức nhà trời ngồi nghe ở đây không thể nổi nóng mà dễ
dàng cười thông cảm vì Thái Quốc Mưu dùng cách xưng hô như người Dân Tộc: ai
cũng gọi bằng thằng và xưng lại là tau.
Qua vế luận, lão điên không còn điên nữa mà
lời phát ngôn nghiêm chỉnh như một hiền nhân ưu tư về thế sự:
Cái
tình dân tộc còn đâu – chán!
Hai chữ nghĩa nhân cũng hết –sầu!
Hai chữ “chán” và “sầu” nhấn mạnh như kết
luận tình hình trần thế mà lão điên trình lên hội đồng thiên thượng cùng lời ta
thán bày tỏ nỗi lòng lo âu vì thời cuộc thế gian. Điều đó chứng tỏ sự tỉnh táo
trong tâm thần người đứng trước bệ tiền. Cái điên vừa qua chỉ là trò giả ngây
ngô của một vì thần tiên pha cốt cách con người đóng vai hài hước tạo nguồn
vui. Lão điên bây giờ trở lại nguyên hình là một sứ thần đầy uy tín. Do đó nhà
trời tin ngay những lời ông nói mới “vỗ án”, “đau đầu”.
Bài thơ “Lão điên chầu trời” như một nụ
cười diễu cợt nhà trời. Nụ cười đó mang đầy tính chất ngông nghênh, hài hước
đem đến giữa thiên triều một không khí tươi vui nhưng cũng gián tiêp tỏ ra nhân
phẩm của con người không thua chi thiên thượng. Đọc bài thơ ta thấy cõi trời và
cõi người hầu như rất gần nhau và cái điên của lão điên là cầu nối thân thiện
giữ con người cùng thượng đế.
Qua một lần khác, Thái Quốc Mưu không chầu
trời với tư cách sứ thần mà với tư cách khách vãng lai:
VIẾNG
TRỜI
Nhân tiện ngang qua ghé viếng Trời
Gặp ông Thái Thượng vểnh râu cười
Một đàn tiên nữ ra vồn vã
Mặt ngọc Hằng Nga tỏa sáng ngời
Phật Tổ giơ tay: “Chào Lão Đệ!”
Quan Âm cất tiếng: “Á, Ông Lười!”
Nước Trời trên dưới cùng tôn quý
Khác với nhân gian lắm ngợm người
Toàn thể bài thơ trình bày một cuộc đón
tiếp niềm nở của nhà trời với một người bạn thân thương. Vị thần mà tác giả gặp
đầu tiên là Thái Thượng Lão Quân. Thái Thượng Lão Quân là tôn hiệu của một vị
thần tiên trong Đạo giáo Trung Quốc. Trong thần thoại Đạo giáo, Thái Thượng Lão
Quân có trước cả trời đất, chính là nguyên khí thời hỗn mang ngưng kết mà
thành. Thái Thượng Lão Quân ở cung Đâu Suất, tại tầng trời thứ 33. Trong cung
Đâu Suất có lò Bát Quái là nơi luyện các loại tiên đơn thánh thủy để trường
sanh bất tử. Tiếp đó tác giả gặp Hằng Nga, Phật Tổ, Quan Âm và tiên nữ vui mừng
chào thưa vồn vã. Bài thơ cho ta thấy một không khí nhu hòa, tươi vui, thân
thiện chứng tỏ người đến thăm là người được nhà trời yêu thương mến mộ. Trong
bài thơ nầy tác giả chỉ bày tỏ một thân vị thần thánh của ông qua lời lẽ trong
thơ và qua cách đón tiếp của nhà trời. Lời thơ trong “Viếng Trời” không chế
riễu, không coi nhẹ người nước trời nữa mà cuối bài ông còn ca tụng “Nước trời
trên dưới cùng tôn quý”. Điều nầy dễ hiểu vì bây giờ ông và họ cùng đẳng cấp
như nhau, cùng mang chung thân vị thần tiên nên không có sự tị hiềm ganh ghét.
Trong bài thơ nầy tác giả thẳng thừng chê bai hạ giới: “Khác với nhân gian lắm
ngợm người”. Điều nầy không đáng trách, vì khi tác giả đóng vai thần chánh hiệu
thì phải nhận xét con người với tất cả công tâm. Có như thế bài thơ mới thoát
tục và mang hương vị ở chốn cao sang, thánh thoát.
Thái Quốc Mưu là một nhà thơ nhưng chính
thơ ông sáng tác lại đóng vai diễn viên trên sân khấu. Khi điên thì cái điên
cũng mượt mà, thanh nhã và chơn chất mà khi nghiêm chỉnh thì đường bệ, thanh cao.
Dầu điên hay tỉnh Thái Quốc Mưu luôn có nụ cười hóm hỉnh, ý vị và hài hòa như
lan ra giữa cõi trời một niềm vui thú, làm cho cõi trời trở nên một sân khấu
cho khán giả trút đi ưu tư phiền muộn trong tiếng cười. Rất nhiều thi sĩ đã về
trời trong cơn say chếnh choáng. Rát nhiều thi sĩ đã đứng trước bệ tiền miệt
thị cõi bề trên. Thái Quốc Mưu thì không như thế. Khi thì ông về trời trong
thân vị nửa tục nửa tiên để hiểu thấu đáo niềm đau của loài người và nỗi khổ
của đấng chí cao. Khi thì ông về trời trong thân vị một vị thần để thư giản cho
chính mình và thư giản cho người thưởng thức thơ ông. Dầu về trời trong cương
vị thế nào, thơ Thái Quốc Mưu đều tiềm ẩn trong đó một triết lý sống vui, nhẹ
nhàng và thoải mái, làm cho người đọc sau nụ cười thì chiêm nghiệm được phong
cách sống ở đời cho đẹp thêm lên.
Châu Thạch đã bàn về thơ lên trời của Thái
Quốc Mưu, bây giờ ta hảy thử bàn tiếp thơ du địa phủ của tiên sinh.
Cũng như lên trời, nhà thơ Thái Quốc Mưu du
địa phủ nhiều lần trong nhiều tư cách. Khi thì ông được mời, khi thì đi dạo
chơi, nhưng chưa lần nào ông bị gọi đi như đã từng nhận chiếu chỉ của Ngọc
Hoàng. Điều đó chứng tỏ vai vế của ông đối với nhà trời thì còn thấp đôi chút
nhưng đối với địa phủ thì chẳng đứng dưới ai kể cả Diêm Vương. Cũng khác với
lên trời, tâm trạng của Thái Quốc Mưu khi về địa phủ không được vui, vì ở đó
ông thấy toàn nghịch cảnh.
Bây giờ ta hãy xem xét một vài bài thơ tiêu
biểu trong những chuyện về âm phủ của Thái Quốc Mưu:
VIẾNG
CÕI ÂM
Xuống dưới Diêm Vương dạo cảnh chơi.
Ô hay, địa phủ khác xa đời!
Quần thần mặt mũi như trâu ngựa
Binh lính sai nha khác tính người
Quan lại tham tiền nên tối mắt
Dân đen có miệng phải câm lời
Dưới trên một lũ y khuôn đổ.
Có mắt nhưng mà chẳng có ngươi.
Đối với Thái Quốc Mưu, địa phủ hoàn toàn
tăm tối. Dương trần còn có chuyện vui nhưng địa phủ theo hai cầu mở bài là
“khác xa đời” và ở những câu thơ kế tiếp ông nêu ra toàn những hình ảnh xấu xa:
Quần thần thì “mặt mũi như trâu ngựa”, binh lính sai nha thì “khác tính người”,
quan lại thì “tham tiền nên tối mắt”. Điều đau khổ nhất là cả cõi âm chỉ là một
tập đoàn mù quán “Dưới trên một lũ y khuôn đúc/ Có mắt nhưng mà chẳng có
ngươi”. Sự kiện cõi âm là một tập đoàm mù quán trên dưới giống nhau như khuôn
đúc là một tệ nan chung, lớn lao và đau khổ. Nó như một chiếc khóa khổng lồ cùm
trói xã hội qua nhiều đời nhiều kiếp đã làm cho “Dân đen có miệng phải câm
lời”.
Ở một lần thăm viếng địa phủ khác, nhà thơ
Thái Quốc Mưu lại khẳn định thêm một lần nữa cõi âm ty là một chốn mà giới cầm
quyền không có phẩm chất của người cai trị:
CÕI
ÂM TY
Buồn buồn xuống viếng cõi âm ty
Mắt thấy tai nghe thật lạ kỳ
Viên chức toàn là đồ bát nháo
Quan quân cả thảy lũ vô nghì
Đầu trâu, mặt ngựa luôn vênh váo
Miệng hổ, lòng lang khó sánh bì
Lính lác cũng đòi tiền mãi lộ
Diêm vương thì đầu óc đen xì.
Tất nhiên lên trời hay xuống địa phủ cũng
là những bài thơ phát sinh từ trí tưởng tượng của nhà thơ Thái Quốc Mưu, nhưng
chúng ta thử hỏi vì sao ông có thái độ cởi mở khi lên trời mà lại có thái độ
hằn học khi du địa phủ? Điều đó cũng có thể lý giải được vì hai thái độ khác nhau
đó phát sinh từ tâm lý của nhà thơ. Đối với Thái Quốc Mưu, lên trời nằm trong
ước vọng của ông về một điều tốt đẹp. Ông muốn đồng hóa cõi trời và cõi thế.
Ông muốn con người cũng tốt đẹp như thần thánh và thần thánh cũng mang bản chất
như con người để gần gủi con người. Những điều tốt đẹp ông tưởng tượng có ở
trên trời thì ông ít thấy có ở trần gian mà có thể chỉ nằm trong ước mơ mà ông
hư cấu trong đầu óc của mình, còn nhưng điều xấu xa ông gán cho đja ngục là cái
mà ông đã thấy nhản tiền giữa thế gian, là cái mà ông đã và sẽ chung đụng, là
cái mà ông rất ghét và đã từng phẩn nộ vì nó. Vì vậy dễ hiểu khi ta thấy ông bỏ
qua cái tốt mà chỉ toàn công kích cái xấu ở cõi âm ty. Chỉ một lần trong bài
thơ “Địa phủ Du” nhà thơ công nhận âm ty cũng còn điều tốt đẹp: “Âm ty chẳng
khác gì nhân thế/ Cũng lắm hoa thơm lắm bọ giòi”. Có lẽ vì lúc đó tác giả có
niềm vui gì đó nên cái nhìn của ông về cõi dưới cũng vui lây.
Một lần nhà thơ được Diêm Vương mời xuống
đánh cờ. Đánh cờ là thú chơi tao nhã của tiên ông, nó không phù hợp ở chốn kêu
la và khóc lóc, vì vậy nhà thơ tỏ ra không hứng thú:
NÓI
VỚI DIÊM CHÚA
Cái lão Diêm Vương cắc cớ thôi
Nhè ta mời xuống đánh cờ chơi
Làm như cạn ráo lòng yêu gái
Chẳng biết dư thừa sức tắm hơi
Ào ạt y chang xe xuống núi
Lom khom na ná ngựa leo đồi
Không như tướng, sĩ xua dàn pháo
Chưa bước sang sông đã tịt ngòi.
Đem cái thú chơi tiên mà so sánh với thú
chơi dục tính của trần gian là một ẩn ý sâu sắc của bài thơ. Ta nhìn thấy ở đây
Diêm vương lúng túng như một chú hề trong cái cử chỉ học đòi thanh tao đó. “Y
chang xe xuống núi/ na ná ngựa leo đồi” và cuối cùng thì “Chưa bước sang sông
đã tịt ngòi” là tiếng cười chế diễu Diêm Vương, hay đúng ra, nhà thơ chế diễu
hạng người quyền cao chức trọng, ăn chơi trác táng mà còn lòe thiên hạ sau tấm
bình phong tốt đẹp.
Đọc thơ về du hành ra khỏi trần gian của Thái Quốc Mưu ta thấy nhà thơ lên trời thì ít
mà về địa phủ thì nhiều lần. Vì sao? Rỏ ràng vì ông canh cánh bên lòng những tệ
đoan giữa cuộc đời, những bất công, những đau buồn trên trần thế. Nỗi lòng ông
nặng bởi đời sống con người, bởi hạnh phúc nhân quần xã hội, cho nên sự phản
đối sự xấu xa âm ỉ trong tâm tư ông, khiến ông thường đi về địa phủ như đến
thăm viếng an ủi lớp người bần cùng thì nhiều mà đi đến thiên đàng nơi có nhiều
vinh quang thì ít.
Đọc thơ về du hành địa phủ của Thái Quốc
Mưu ta thấy ở đó tóm gọn những bản cáo trạng tố cáo mảnh liệt những điều xấu
xa, nhất là những điều xấu xa ở giai cấp quan lại từ cao xuống thấp. Thật ra
những điều Thái Quốc Mưu viết không chắc có ở địa phủ nhưng chính nó thật sự
xảy ra ở trần gian. Thái Quốc Mưu dùng địa phủ để chỉ trích trần gian, chỉ
trích những tệ nạn hoặc ít hoặc nhiều, hoặc nhẹ hoặc trầm trọng còn tùy vào cái
nhìn ở mỗi góc cạnh khác nhau nhưng nó đã thật sự xảy ra trên toàn thế gian nầy
không trừ một nơi đâu. Góp thêm với tiếng kêu của nhưng người có tâm huyết,
Thái Quố Mưu dóng lên nhiều tiếng trống tố cáo quyền lực của sự tối tăm đã làm
cho trần gian vốn chẳng thua gì tiên giới bao nhiêu lại trở thành địa phủ, nơi
lòng người “đen xì” và mặt người biến ra “trâu ngựa”
3/4/2014
Châu Thạch © Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật lại theo nguyên bản của tác giả gởi từ Tp. Đà Nẵng ngày 17.9.2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét