Vườn xưa – Bút ký của Võ Anh Cương
Thứ Tư, 23 tháng 7, 2014
Bây giờ anh Thảo không còn ở Đà Lạt nữa. Anh đang sống ở xã Bình Thạnh, huyện Đức Trọng với nghề trồng cà phê và buôn bán. Tôi cũng không biết anh buôn bán thứ gì, chỉ biết rằng cuộc sống anh ổn định, kinh tế gia đình thuộc loại có của ăn của để. Anh là dân di cư, anh theo gia đình lên Đà Lạt năm 1958 sau 3 năm sống ở khu dinh điền Cái Sắn. Anh không bao giờ kể với tôi khoảng thời gian này và tôi cũng không hỏi tại sao nhà anh lên Đà Lạt.
Tác giả Võ Anh Cương
Bút danh khác Văn H. Cương/ Văn H. Cương
Sống và làm việc tại Đà Lạt.
Địa chỉ: Nguyễn Hữu Cương 01 Yersin Đà Lạt ĐT: 0982.582.298 - 0633.830660 Email: voanhcuongdalat@yahoo.com - greatcuong@gmail.com
_____
Võ Anh Cương
VƯỜN XƯA
Bây giờ anh Thảo không còn ở Đà Lạt
nữa. Anh đang sống ở xã Bình Thạnh, huyện Đức Trọng với nghề trồng cà phê và
buôn bán. Tôi cũng không biết anh buôn bán thứ gì, chỉ biết rằng cuộc sống anh
ổn định, kinh tế gia đình thuộc loại có của ăn của để. Anh là dân di cư, anh
theo gia đình lên Đà Lạt năm 1958 sau 3 năm sống ở khu dinh điền Cái Sắn. Anh
không bao giờ kể với tôi khoảng thời gian này và tôi cũng không hỏi tại sao nhà
anh lên Đà Lạt. Không chỉ có mỗi nhà anh, mà nguyên một giáo xứ cùng lên vùng
cao nguyên này sinh sống hình thành nên xứ Thánh Mẫu. Tôi vẫn nhớ năm ấy những
người di cư Công giáo nói một thứ tiếng nói khác hẳn, nặng và trọ trẹ, khuấy
động một vùng ven được gọi là Khu phố 3, bây giờ là Phường 7. Hồi đó gia đình
tôi sống ở ấp Cao Bá Quát, nhưng do ở đó mùa nắng thiếu nước, đất lại ít nên
đâu như năm 1954 ba má tôi quyết định xin đất nơi khác để làm vườn, vùng đất
mới cũng không xa xôi gì ngay trong cùng Khu phố 3. Ba má tôi và mấy người hàng
xóm xin nhà cầm quyền ra khai khẩn đất vườn cách ngã ba số sáu (nay là vòng
xoay Đa Thành) chừng 1 cây số. Vùng đó là một thung lũng kéo dài từ ngã ba cho
đến khúc quanh đường Vòng Lâm Viên mà hồi nhỏ tụi tôi hay gọi là Góc Sở, tôi
chẳng biết tại sao lại có tên đó, chỉ biết rằng nơi ấy là một cánh rừng thông
nhỏ khoảng vài hecta được con đường Vòng Lâm Viên bao bọc. Ấp mới cũng được gọi
là ấp Nguyễn Siêu, tuy ở ngoài ngã ba địa danh đó dành cho một thung lũng được
bao bọc bởi phần cuối đường Bạch Đằng và một phần đường Nguyễn Hoàng giáp ranh
với ấp Tùng Lâm. Nhà tôi xin được một miếng đất cách cánh rừng thông gần một
cây số, bề ngang của thửa đất chừng 20 mét, cứ từ dưới suối khai phá dần lên
đồi, tới đâu cũng được không có hạn định. Nhà cầm quyền cấp cho má tôi cái lập
lăng (plan) đàng hoàng có kèm sơ đồ xác định vị trí thửa đất. Làm vườn cần gần
nước, sau khi khai phá 3 băng đất từ dưới suối lên đến con đường dưới là đến
nhà. Sau nhà là con đường trên, là một nhánh khác của con đường Vòng Lâm Viên
trên đỉnh những ngọn đồi, những băng đất xa nước như vậy, má tôi chỉ trồng
khoai lang vào mùa mưa. Nhà tôi là một nhà ván lợp tôn giống như nhiều nhà
khác. Ván toàn là ván thông, mặt trước là những tấm ván được bào sơ sài, mặt
hông và đàng sau là những tấm ván bìa. Nhà lợp tôn, trong nhà có bờ la phông
đàng hoàng, nhưng không vì vậy mà ngăn được cái lạnh mỗi mùa đông. Phải nói
rằng mùa đông Đà Lạt ngày xưa lạnh lắm, mỗi sáng thức dậy, bọn trẻ con chúng
tôi thường thổi một làn hơi, làn hơi đó trở thành một làn khói, người ta thường
nói thở ra khói là để chỉ cái lạnh trong mùa đông ngày ấy! Sát nhà tôi là nhà
ông bà Hai Phong, họ tên đầy đủ của ông Hai là Nguyễn Hữu Phong. Ông là người
Quảng Ngãi vào Đà Lạt làm ăn sinh sống từ trước năm 1945, bà là người Bình
Định, hai người gặp nhau ở Đà Lạt và nên vợ nên chồng. Ông một đời làm thợ chẻ
đá ngay cả khi về ấp Nguyễn Siêu làm vườn, thỉnh thoảng ông vẫn làm nghề khi có
người kêu đi làm đá, bàn tay ông cầm cái đục suốt cả ngày nên hình dáng những
ngón tay trở thành hình vuông, da thô ráp đụng tới bọn trẻ con chúng tôi là đau
thấu trời. Vợ chồng ông Hai Phong không có con, nhưng không vì vậy mà hai ông
bà không có mộng làm giầu. Thuở ấy, ấp Nguyễn Siêu của tôi sau vài năm khai
khẩn thường thiếu nước vào mùa nắng, mà mùa nắng là mùa trồng rau được nhất,
rau hoa gì cũng xanh tốt trong không gian trong xanh kéo dài từ giữa mùa đông
đến mùa hạ, nhưng với điều kiện là phải có nước tưới. Không có nước thì nhà
vườn cho đất nghỉ và người cũng phải nghỉ chơi chờ trời mưa xuống, cứ giống y
như hồi còn làm vườn ở ấp Cao Bá Quát, má tôi nói vậy. Hồi đó tôi không biết vì
sao con suối nhỏ dưới lòng thung lũng chảy ngang qua vườn nhà tôi lại thiếu
nước như vậy? Sau này lớn lên hiểu biết hơn tôi mới nhận ra rằng cánh rừng
thông Góc Sở bị đốn sạch để lấy đất làm vườn chính là thủ phạm. Cây giữ nước,
cây mà không còn thì nước làm sao giữ được? Đến năm 1961, dân ấp Nguyễn Siêu
lại đi tìm vùng đất mới có nước nhiều hơn để làm vườn. Lần này họ chọn một vùng
đất cạnh Thung lũng Tình yêu cách xóm cũ chừng 3 cây số để khai phá đất mới.
Không phải tự nhiên mà vô khai phá đất được, một mặt dân ấp phải xin phép nhà
cầm quyền sở tại, mặt khác phải thương lượng với người Thượng để họ nhượng “đất
ông bà để lại” cho bà con làm vườn. Sau mấy lần thương thuyết, khi thì Ban đại
diện lên xã Lat (huyện Lạc Dương ngày nay) trao đổi, khi thì mời “đại diện đồng
bào” xuống ấp Nguyễn Siêu để mà bàn bạc, cuối cùng một văn tự được ký kết, đồng
bào đồng ý nhượng vùng đất là nơi thả rong trâu của người Lạch ở xã Lat cho dân
ấp Nguyễn Siêu với giá ba chục ngàn đồng! Năm 1958 ba tôi mất, má tôi mẹ góa
con côi không đi khai phá đất mới chỉ có vợ chồng anh rể tôi tham gia. Ông bà
Hai Phong là người tham gia sớm nhất, không hiểu ông kêu bán vườn lúc nào mà
tôi không biết, chỉ thấy một buổi sáng ông bà dọn ra Đất mới, giao nhà lại cho
gia đình ông Hảo, người di cư từ khu dinh điền Cái Sắn lên Đà Lạt mà anh Thảo
là con trưởng. Tôi nhớ như in buổi sáng hôm ấy, ông Hảo với cái chân cà nhắc đi
lên đi xuống khắp vườn, vườn mới ông mua lại của ông bà Hai Phong rộng gấp 5
lần vườn cũ của ông ở ấp Thánh Mẫu do nhà cầm quyền cấp cho dân di cư, dường
như ông bà Hảo hài lòng lắm với mảnh vườn mới mua của mình. Còn tôi, một thằng
nhỏ không mấy cảm tình với những người hàng xóm mới. Cảm tính làm sao được khi
mà bỗng dưng bà Hai Phong dọn đi, để lại một khoảng trống trong lòng chúng tôi.
Số là bà Hai hay bị ngứa đầu, tóc bà bạc trắng nửa mái đầu, bà cho rằng mình bị
như vậy do một loại tóc bà gọi là tóc ngứa. Đó là những sợi tóc ngắn mọc sát da
đầu, khi nhổ nó quăn lại với một đoạn ống lông màu trắng đục. Bà Hai thường
“thuê” bọ trẻ con chúng tôi nhổ tóc ngứa, cứ đứa nào nhổ được 20 sợi tóc ngứa
bà cho 1 đồng. Đó làm đồng bạc làm bằng thứ hợp kim màu trắng có in hình “Ngô
Tổng thống” với khuôn mặt đầy thịt, mặt sau là hình bụi tre có chữ 1 đồng. Bọn
trẻ con chúng tôi không chú ý mấy đến hình thức của đồng tiền in hình ông Tổng
thống bởi chẳng biết Tổng thống là cái chi chi, chúng tôi chỉ thích dùng đồng
tiền đó để đánh đáo hay mua được vài cục kẹo gói trong những tờ giấy bóng kính
đủ màu. Giờ bà Hai ra Đất mới ở, không ai “thuê” chúng tôi nhổ tóc nữa “thu
nhập” của bọn trẻ chúng tôi bỗng nhiên tụt giảm, làm sao chúng tôi không tức
cho được? Nguyên nhân việc này là do gia đình ông bà Hảo, bỗng dưng ở đâu đến
đây mua vườn, đích thị chính người hàng xóm mới làm nên cái chuyện này! Vì vậy
bọn trẻ chúng tôi không ưa gia đình anh Thảo, nhìn anh như nhìn người “nước
ngoài” nói thứ tiếng lạ huơ lạ hoắc! Khi ông Hai bán vườn, ông để lại cho người
chủ mới vạt sú đang cuốn, cái giống sú NS Cross của Nhật khi cuốn lại trông đẹp
đẽ đến mê hồn. Vậy mà bọn trẻ chúng tôi lại đan tâm dùng dao lam rạch một đường
trên cái bắp sú để “trả thù” và “dằn mặt” những người chủ mới. Thật ra thì
chúng tôi chỉ rạch vài bắp sú trồng ở rìa đường dẫn xuống vườn, là con đường
nhỏ cho cả xóm đi chung khi xuống cái giếng “cộng đồng” để gánh nước về dùng.
Ông Hảo khi phát hiện ra việc bị ai đó rạch mấy cái bắp sú của mình, ông bà và
cả ba anh em anh Thảo không nói một tiếng nào! Dường như ông Hảo nhận ra vị trí
của gia đình ông trong một xóm nhỏ với những người khác đạo, khác giọng nói và
cả những tập tục cũng không đồng nhất. Chính cái dáng đứng bất động, khuôn mặt
đau khổ với ánh mắt tê dại của ông Hảo khiến tôi cảm thấy ân hận vô cùng!
Khoảng cách giữa tôi và gia đình anh
Thảo nhanh chóng rút ngắn bởi tuổi trẻ dễ hòa nhập, hơn nữa anh Thảo có người
em trai cùng tuổi với tôi. Em trai anh Thảo tên là Hiển, Lê Thế Hiển, tuy sàn
sàn tuổi tôi nhưng học thua tôi hai lớp, sự gián đoạn việc học của Hiển chắc là
do chuyện di cư từ huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh vào miền Nam nhưng năm 1954 – 1955. Tuy thân
với nhau nhưng chưa bao giờ tôi hỏi Hiển điều này, Hiển học trường Văn Học là
một trường tư, còn tôi học trường Trần Hưng Đạo là một trường công lập, mỗi năm
chỉ tuyển sinh chừng bốn năm lớp đệ thất, là lớp đầu cấp của cấp học Trung học
đệ nhất cấp, nay ta gọi là cấp 2. Nhà anh Thảo trồng rau đâu được vài lứa rồi
chuyển qua trồng cây a ti sô. Thuở ấy, cây a ti sô mỗi năm cho hoa từ khoảng
tháng chạp đến tháng tư ta, sau đó nhà vườn sẽ thu hoạch lá, thân, rễ để bán
tươi hoặc phơi khô tùy theo mục đích của người mua và ươm cây con trồng vụ mới.
Trồng a ti sô chỉ có tiền trong thời gian chừng 4 tháng, nhà vườn phải có vốn
để đầu tư cho cây và cho chi dụng hàng ngày chờ thu hoạch mùa vụ tới. Cái rò
(luống) đất trồng cây a ti sô rộng gấp rưỡi khi trồng sú hoặc các loại rau
khác, còn khoảng cách trồng giữa hai cây a ti sô chừng 1 mét, khoảng cách rộng
như vậy mới đủ chỗ cho những tàu lá to bản màu xanh thẫm vươn ra đón nắng. Anh
Thảo ngoài giờ đi học thì về nhà làm vườn phụ gia đình như đa số bọn trẻ chúng
tôi. Chúng tôi tuy nhỏ nhưng cũng biết nỉa đất, giật máy nổ, kéo dây tưới mà bà
Hảo gọi là “địu” dây. Còn việc bơm thuốc sâu cho rau chúng tôi cũng phải làm,
bởi việc làm vườn rất cần người, nhờ đó tôi đã biết kỹ thuật canh tác rau lúc
còn rất nhỏ. Anh Thảo đang học lớp đệ tam thì bị bắt lính, người ta bắt anh vào
lính địa phương quân. Từ ngày anh đi lính, công việc làm vườn giao cho ông bà
Hảo, Hiển và người em gái. Thỉnh thoảng anh Thảo ghé vội về nhà tranh thủ làm
vài việc nặng rồi lại ra đi. Một thời gian sau, anh bị đôn quân, nghĩa là từ
địa phương quân anh bị đưa ra vùng 2 chiến thuật thành lính sư đoàn 23. Được
chừng một năm tôi thấy anh Thảo về nhà, anh nói anh đào ngũ, ngoài đó chiến
tranh ác liệt quá, ngày nào cũng có người chết, anh không chịu nỗi phải trốn
thôi.
Vậy là Hiển phải thay anh Thảo làm
vườn. Công việc trồng cây a ti sô khỏe hơn trồng các loại rau khác, hàng tuần
vào mùa nắng chỉ tưới một lần, nhưng phải tưới thật đẫm để nước có thể giữ lại
lâu trong đất. Hiển chọn ngày chủ nhật để tưới a ti sô, tuy ngày chủ nhật người
có đạo Thiên chúa được nghỉ ngơi đi nhà thờ theo luật đạo. Qua tết, sau những
ngày vui vẻ, người làm vườn Đà Lạt lại lao xuống vườn, một trong những công
việc căng thẳng của mùa khô là lo nước tưới cho rau. Từ ngày cánh rừng thông
nhỏ ở Góc Sở bị chặt phá, con suối trước nhà tôi ngày càng ít nước. Nhà nào
cũng phải đắp một cái đập giữ nước dẫn vào hồ của mình dành để tưới rau. Nhà
Hiển có tới 2 cái hồ nhưng nước vẫn không đủ, Hiển phải chia việc tưới a ti sô
thành nhiều đợt trong tuần nên vất vả lắm. Lúc ấy tôi không để ý đến thu nhập
của gia đình anh Thảo trong việc trồng a ti sô, nhưng chắc là khá bởi anh Thảo
mua được một chiếc Honda 67 là thứ xe ngon lành nhất thời đó. Khi anh Thảo đi
lính ở Bình Định, Hiển là người sử dụng xe này. Lúc anh Thảo đào ngũ, anh không
dám đi ra đường nên Hiển lại tiếp tục được dùng xe, tôi và Hiển thường đi chơi
với nhau trên chiếc xe màu đen dáng dũng mãnh với tiếng nổ giòn tan! Không trốn
lính lâu được, anh Thảo phải xin giấy tờ giả với tên khác đăng lính nghĩa quân.
Anh làm lính gác tại trường Chiến tranh Chính trị, đêm gác, ngày trốn về làm
vườn cho tới ngày giải phóng. Sau 3 ngày học tập, anh trở lại làm vườn, lần này
anh là một nông dân chính hiệu, khỏi phải trốn về làm một công việc mà anh quen
làm từ thời nhỏ. Anh tham gia tập đoàn, sau khi tập đoàn rã đám, anh trở lại
làm cá thể như những người khác được một thời gian ngắn, anh bỏ vườn về Bình
Thạnh làm cà phê, lấy vợ và ở mãi tới giờ.
Vườn xưa của nhà anh Thảo tới giờ vẫn
còn. Hiển thay anh làm vườn và trải qua biết bao nhiêu biến động. Một đời người
cho dẫu có an nhàn bao nhiêu cũng phải trải qua những đoạn trường. Ông Hảo đã
chết, người đàn ông bị tật đi cà nhắc do di chứng của một cơn tai biến vẫn hàng
ngày cặm cụi làm vườn. Công việc duy nhất ông Hảo là làm cỏ với một cái cuốc
nhỏ bằng bàn tay nhưng rất bén, cái dáng cứng nhắc lầm lũi của ông từ dưới vườn
lên đến sân đất trước nhà như là một biểu tượng của sự miệt mài. Ông ra đi rất
nhẹ nhàng và thanh thản, dường như đó là một phần thưởng cho một cuộc đời lao
động của ông? Về làm vườn thay anh Thảo, Hiển bỏ lại sau lưng những khát vọng
một thời và yên ổn với những lo toan rất đời thường như giá rau, giá phân, trời
mưa trời nắng, nước nôi cây cỏ….Khu vườn xưa thiếu nước giờ với bàn tay Hiển đã
có đủ nước tưới cho tận những băng đất ở đường trên. Hiển cũng không tài giỏi
gì - cánh rừng thông năm trước cũng không được trồng lại, ở đó giờ đã mọc lên
một cư xá sinh viên mười mấy tầng để ươm những mầm xanh, Hiển đã tìm ra mạch
nước ngầm sát chân đồi đủ nước tưới cho 5 sào đất. Cái thứ đất nhà Hiển hợp với
cây cà rốt, mỗi lần ra thăm Hiển tôi đều thấy Hiển quanh năm trồng loại rau
này. Quả thật, trên lớp đất đen những cây cà rốt xanh thẫm một màu. Hiển tỉa cà
rốt rất thưa, hai cây cách nhau một gang tay, củ dài đến gần 3 tất! Một rò cà
rốt dài chừng mươi lăm mét vào mùa nắng Hiển thu hoạch được gần một tạ, hơn hẳn
những vườn cà rốt của những nhà vườn khác. Rồi bẳng đi một thời gian, tôi không
thấy Hiển trồng cà rốt nữa, thay vào đó là hành tây tím, loại một củ rưỡi. Từ
trên giông cho tới băng đất dưới suối, mùa nắng vườn hành nhà Hiển bạt ngàn màu
xanh. Sau tết Hiển thu hoạch hành phơi khô và trữ trong một nhà giàn sau nhà
chờ giá. Có năm giá lên gấp mấy lần đầu vụ, nhưng hao hụt cũng nhiều vì hành
thúi, hành “lên tim” không bán được. Những năm hành mất giá quả là những ngày
“hành hạ” của Hiển, nhưng biết làm sao được, làm vườn là như vậy đó! Bây giờ
không ai trồng hành tím nữa, Hiển quay qua hành vàng, qua tết hành ngả rạp
những củ hành che kín mặt đất nhìn thích mắt….
Hình như tôi không có duyên mấy với
chuyện làm vườn, mấy chục năm tôi không đụng đến cái nỉa đất là một vật dụng
làm vườn rất đặc trưng của nhà vườn Đà Lạt bởi tôi làm công việc khác. Cái nỉa
đất được du nhập vào nhà vườn Đà Lạt từ thời Pháp giống y như cái cày của người
làm ruộng. Tôi vẫn nhớ những cái nỉa hiệu Peuguot của Pháp sau một vài năm
trong tay nhà vườn Đà Lạt trở nên nhọn hoắt, nhiều cái nỉa mòn chỉ còn lại bằng
một phần ba lúc mới dùng, nhà vườn Đà Lạt bẻ cụp lại để làm cái cuốc xăm phá vỡ
lớp “ván mặt đất” để đưa phân bón xuống bộ rễ của cây trồng. Vậy mà mấy chục
năm sau khi tôi ra thăm vườn xưa nhà Hiển, cái nỉa dường như không được nhà vườn
Đà Lạt sử dụng mấy. Hỏi vì sao Hiển trả lời bây giờ không ai còn nỉa đất, một
công việc cực nhọc trước khi trồng cây ngày trước, công việc này đã có những
chiếc máy cày thay thế. Vui chuyện, Hiển kể chuyện làm vườn, tôi ngồi nghe như
vịt nghe sấm bởi bây giờ cái chuyện làm vườn nghe như chuyện…ở nước ngoài! Thì
ra cái chuyện làm vườn của nhà vườn Đà Lạt giờ đã áp dụng thành tựu của khoa
học kỹ thuật vào nhiều, Đà Lạt là một trong những địa phương áp dụng công nghệ
cao vào loại nhanh nhất nước. Còn nữa, thu nhập từ 1 hecta vườn Đà Lạt trong 1
năm vượt xa cái ngưỡng 50 chục triệu đồng là mức phấn đấu của ngành nông nghiệp
trong cả nước. Ôi những con số biết nói! Cũng vui chuyện Hiển kể với tôi bên
cạnh những cái được như vậy, vẫn còn những chuyện như không vui như được mùa
mất giá, đầu ra cho rau hoa đôi khi còn bỏ ngõ. Cái gam màu xám ấy rất may
không phá hỏng màu xanh của núi đồi cỏ cây rau hoa non nước…của Đà Lạt hôm nay.
Với tôi vườn xưa thời thơ ấu và tuổi
thiếu niên bao giờ cũng đọng lại những cảm xúc rất đậm đặc. Cái cảm xúc đó tôi
cũng đọc thấy trong mắt nhiều người đang và đã sống ở đây. Cái chất rất Đà Lạt
được tạo nên bởi nhiều bản sắc vùng miền trên cả nước mang đến một vùng đất có
bốn mùa trong một ngày, có rừng trong phố, phố trong rừng, có hoa tươi bốn mùa
khoe sắc…và có cả tương tư cho những người từng đến Đà Lạt một lần!
Vườn xưa đã khuất những ông bà Hai
Phong, dáng lầm lũi của ông Hảo, những mùa nắng thiếu nước héo hắt hanh
hao…nhưng vườn xưa vẫn đầy ắp những kỷ niệm ngọt ngào trong ký ức tuổi thơ tôi!
22/10/2013
(Giải 3 cuộc thi sáng tác VHNT 120 Đà Lạt hình thành và phát triển)
Nguyễn Hữu Cương
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ Đà Lạt ngày 23.7.2014
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanVietNet Khi Trích Đăng Lại.
_________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét