Truyện ngắn Hoàng Thảo Chi (Huế)
Thứ Ba, 15 tháng 7, 2014
Hỏa
táng một bài thơ – Truyện ký Hoàng Thảo Chi
Thứ ba - 15/04/2014 19:43
Xin các
quý vị đừng cho là tôi đùa, khi thấy tên của bài viết nho nhỏ này như vậy. Trưa
nay: 13 tháng 4 năm 2014, tôi đã phải hỏa táng một bài thơ, theo đúng nghĩa đen
của nó. Với tôi đó là một câu chuyện buồn. Tôi cũng không muốn giữ cho riêng
mình làm gì. Tôi xin kể lại ngay sau đây, ngõ hầu được sự sẻ chia của các quý
vị: Dù mới đi công việc về chiều hôm qua, nhưng hơn bẩy giờ sáng nay tôi đã có
mặt tại một nơi cách thành phố Huế khoảng 15 km. Đêm qua, Festival Huế đã khai
mạc tại quảng trường Ngọ Môn, trước Đại Nội. Sáng nay, tất cả các điểm vệ tinh
của Huế đồng loạt khai hội. Nơi tôi đến là khu vực cầu ngói Thanh Toàn,
...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
HỎA TÁNG MỘT BÀI THƠ
Xin các quý vị đừng cho là tôi đùa, khi thấy tên của bài viết nho nhỏ này như vậy. Trưa nay: 13 tháng 4 năm 2014, tôi đã phải hỏa táng một bài thơ, theo đúng nghĩa đen của nó. Với tôi đó là một câu chuyện buồn. Tôi cũng không muốn giữ cho riêng mình làm gì. Tôi xin kể lại ngay sau đây, ngõ hầu được sự sẻ chia của các quý vị:
Dù mới đi công việc về
chiều hôm qua, nhưng hơn bẩy giờ sáng nay tôi đã có mặt tại một nơi cách thành
phố Huế khoảng 15 km. Đêm qua, Festival Huế đã khai mạc tại quảng trường Ngọ
Môn, trước Đại Nội. Sáng nay, tất cả các điểm vệ tinh của Huế đồng loạt
khai hội. Nơi tôi đến là khu vực cầu ngói Thanh Toàn, thôn Thanh Thủy Chánh, xã
Thủy Dương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây có cây cầu cổ, bắc
ngang một dòng kênh nhỏ, có mái ngói che suốt cả cây cầu. Nó là di tích cấp
Quốc Gia, là niềm tự hào, là biểu tượng của quê hương hương Thủy Dương. Nếu bây
giờ có mặt tại đây, các quý vị sẽ bắt gặp hồn cốt chợ quê của các làng xã Việt
Nam, cách đây vài chục thập niên về trước. Chính vì vậy, lễ hội ở đây mới
có tên: CHỢ QUÊ.
Cách đây hai năm, ngày 13
tháng 4 năm 2012, tôi cũng có mặt tại đây lúc hơn 7 giờ sáng. Đi lang thang một
vòng, cuối cùng tôi dừng lại trước một quán bánh cuốn nóng, nhân thịt theo kiểu
của miền Bắc. Cùng ngồi chờ với tôi, còn một ông già khoảng gần 80 tuổi, ăn mặc
lịch lãm, gương mặt phong trần, từng trải. Chỉ có đôi mắt như buồn xa xăm, cùng
những ánh nhìn ngơ ngác. Khi trao đổi với cô chủ quán, tôi thấy ông nói tiếng
Sài Gòn, nên bắt chuyện:
- Chào bác, bác ở xa thế
mà cũng ra dự Festival ạ?
- Dạ chào ông! Tôi người
vùng này. Chỉ có điều tôi đã bỏ xứ mà đi gần sáu mươi năm, nên bây giờ quen
giọng Nam thôi. Mà sao ông lại nói giọng Bắc vậy?
- Dạ, đó là một câu chuyện
hơi dài ạ!
- Vâng, chuyện của tôi
cũng dài lắm…Nhưng thôi, chúng ta ăn bánh cho nóng đã.
Ông lão và tôi coi
như đã quen nhau. Ăn bánh cuốn xong, chúng tôi bước sang hàng rượu bên
cạnh, im lặng uống xuông một chai nửa lít Thủy Dương rồi thong thả tản bộ lên
cầu. Đến cái ghế đúng giữa cầu, ông mời tôi ngồi xuống, rồi thong thả kể cho tôi
nghe vắn tắt về câu chuyện “Dài” của ông.
…Ngày xưa, nhà ông cách
cầu ngói Thanh Toàn khoảng 5 km. Thưở mười chín, đôi mươi ông lên Huế để học.
Không biết trời xui đất khiến thế nào, mà ông đã gặp và yêu một tiểu thư khuê
các bên Thành Nội. Biết bao lần họ đã bí mật về chơi cầu ngói Thanh Toàn. Và
lần nào cũng vậy, họ đều ngồi trên chiếc ghế nơi chúng tôi đang ngồi đây. Khi
tình yêu của họ đang thắm nồng, thì bố của tiểu thư biết chuyện. Vô cùng tức
giận vì cái sự không “Môn đăng, hộ đối” của chàng trai với con gái của mình,
tiểu thư ngay lập tức bị ông bố gửi vào một trường nữ sinh nói tiếng Pháp tận
Sài Gòn. Còn ông thì bỏ học, xung vào quân lực Việt Nam Cộng Hòa cùng một trái
tim rớm máu, bởi mối tình đầu cay đắng của mình. Họ bặt tin nhau đã gần sáu
chục năm.
Ông vừa từ Mỹ trở về, để
sống nốt quãng đời còn lại của mình tại Việt Nam. Vợ ông đã về cõi vĩnh hằng
hơn mười năm về trước. Hơn mười năm sau khi vợ ông đi xa, đêm nào trên đất
Cali, ông cũng trở về cầu ngói Thanh Toàn, tìm về với quê hương, tìm lại những
kỉ niệm của mối tình đầu sương khói.
- Đúng 8 giờ ngày 13 tháng 4 năm 2014, xin lại gặp ông tại đây. Chỉ có cái chết mới có thể ngăn tôi tới thăm cây cầu này. Nhất định ông đến nhé!
- Đúng 8 giờ ngày 13 tháng 4 năm 2014, xin lại gặp ông tại đây. Chỉ có cái chết mới có thể ngăn tôi tới thăm cây cầu này. Nhất định ông đến nhé!
Ông cười, bắt tay tôi thật
chặt. Chúng tôi chia tay nhau. Tôi về Huế mang theo câu chuyện tình buồn của
ông. Tôi viết lại chúng bằng một bài thơ nhỏ, rồi nhờ một người bạn họa sỹ
trình bầy trang trọng trên một tờ giấy khổ A4, bằng kiểu viết thư pháp, trên
nền mờ mờ cây cầu ngói Thanh Toàn phía sau. Đây là món quà tôi sẽ tặng cho ông
trong lần hội ngộ lần này.
Đúng 8 giờ sáng, lễ khai
mạc lễ hội CHỢ QUÊ tưng bừng trong âm nhạc, lời ca, tiếng hát. Tôi đi lên cầu,
tới chiếc ghế chính giữa ngồi chờ ông. Hơn một tiếng đồng hồ đã trôi qua. Ông
vẫn chưa xuất hiện.Tuy đói nhưng tôi vẫn không dám đi ăn sáng, vì sợ nhỡ đúng
lúc tôi đi, ông lại tới thì biết làm thế nào? Tôi đợi ông đến tận 12 giờ trưa.
Chợt nhớ lời tạm biệt của ông hai năm trước:
- Chỉ có cái chết, mới có
thể ngăn cản tôi tới thăm cây cầu này…
Tôi rùng mình!!!
Tôi đi qua cầu. Phía
bên ấy người ta có treo những bài thơ viết về cầu ngói Thanh Toàn. Tôi định
treo bài thơ của tôi ở đấy. Nhưng cuối cùng tôi nghĩ: Có thể ông bạn già của
tôi đã lên cõi Niết Bàn rồi. Nếu vậy, tôi phải Hóa bài thơ này đi, bởi nó chính
là món quà, mà tôi đã cất công xuống tận nơi đây, để trao tận tay ông.
Tôi móc cái bật lửa ra,
trang ngiêm hỏa táng bài thơ. Sau khi tờ giấy đã cháy hết, tôi thận trọng gom
hết tàn tro vào lòng bàn tay. Tôi lên cầu, đến bên chiếc ghế mà đôi uyên ương
thưở xưa vẫn ngồi, từ từ thả những tàn tro xuống nước. Tôi nguyện cầu bài thơ
đến được với ông, để mãi mãi ngợi ca mối tình đầu nồng cháy, nhưng trái ngang
đã thiêu đốt tâm can ông suốt cả cuộc đời…
Và các quý vị ơi! Bây giờ
xin mời các quý vị đọc lại bài thơ đó. Nếu có điều gì chưa thực hài lòng, xin
tha thứ cho tôi. Bởi vì tôi không là thi nhân, cũng không phải là văn sỹ. Tôi
chỉ là người đã được nghe và mạo muội kể lại một câu chuyện tình rất đẹp nhưng
rất buồn…mà thôi.
AI VỀ CẦU NGÓI THANH TOÀN
“…Ai về cầu ngói Thanh Toàn
Cho em về với một đoàn cho vui…”
Tôi về cầu Ngói…Người ơi
Nhanh chân tôi đợi kẻo trời sắp trưa
Tôi xin Trời nhé…đừng mưa
Kẻo phai đi hết hương xưa trong long
Cả đời vẫn cứ chờ mong
Lại về cầu Ngói một vòng cùng em.
Trăm vàn gương mặt lạ quen
Tôi bơ vơ lạc…bóng em nơi nào
Vẫn cầu, vẫn nước xôn xao
Mà lòng trĩu nặng, tim nao nao buồn.
Trời không chớp bể mưa nguồn
Mà lòng tôi bỗng mưa tuôn dâng đầy
Muốn bay lên giữ đám mây
Vắt tim gan viết câu này: Nhớ em!!!
Huế
tháng 4/2012- tháng 4/2014
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 15.4.2014
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Mimosa!
- Truyện ngắn Hoàng
Thảo Chi ()
Thứ
tư - 06/11/2013 20:52
Từ lâu,
tôi có thói quen đi bộ từ bốn giờ ba mươi, đến năm giờ ba mươi sáng mỗi ngày.
Dạo trước, tôi vẫn đi loanh quanh trong khu vực mình ở, cùng với mấy ông hàng
xóm. Hơn một tháng trước, cách nơi tôi ở vài trăm mét, bỗng mở một con đường
nhựa rộng thênh thang, dài hơn một cây số, băng qua một khu đầm trũng, đầy rau
muống và lau sậy um tùm, tiến sát đến bờ sông Hương. Suốt từ chập tối cho đến
năm giờ sáng, điện cao áp bật sáng trưng.Tôi quyết định “Chuyển phỏm” đi sang
con đường mới đó.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
MIMOSA!
Từ lâu, tôi có thói quen
đi bộ từ bốn giờ ba mươi, đến năm giờ ba mươi sáng mỗi ngày. Dạo trước, tôi vẫn
đi loanh quanh trong khu vực mình ở, cùng với mấy ông hàng xóm. Hơn một
tháng trước, cách nơi tôi ở vài trăm mét, bỗng mở một con đường nhựa rộng thênh
thang, dài hơn một cây số, băng qua một khu đầm trũng, đầy rau muống và lau sậy
um tùm, tiến sát đến bờ sông Hương. Suốt từ chập tối cho đến năm giờ sáng, điện
cao áp bật sáng trưng.Tôi quyết định “Chuyển phỏm” đi sang con đường mới đó.
Mới sang, chưa quen ai,
nên tôi cứ lẳng lặng tiến hành chương trình của mình. Con đường dài hơn một cây
số, đi với tốc độ khoảng 6 km một giờ, tròn ba vòng là tôi hoàn thành kế hoạch.
Nếu cứ như vậy, thì cũng chẳng có gì đáng viết ra đây. Nhưng thực ra, trên con
đường đi bộ thể dục buổi sáng, ngỡ như rất bình yên ấy, cũng ẩn chứa bao điều
bất ngờ. Có thể là thú vị, cũng có thể là vô cùng nhiêu khê… mà không ai có thể
đoán trước được, bất kỳ điều gì sẽ xảy ra.
Một hôm, cũng như thường
lệ, tôi có mặt trên con đường mới, khi ánh điện còn rực sáng. Gió từ phía sông
Hương thổi lên mát rượi. Phải nói là không khí ở đây tuyệt hảo, chúng ngọt lịm
trong từng nang phổi. Khi đang miên man suy nghĩ, và say sưa hít thở bầu không
khí trong lành, thì một mùi hương thoảng qua mũi tôi. Nó như vừa ngầy ngậy, như
vừa trộn lẫn mùi hoa chanh, hoa bưởi, hoa lài...Tôi không biết nó là mùi gì? Nó
hư hư, thực thực, lúc có, lúc không!!! Tôi hiểu đó không phải là mùi nước sông
Hương. Nước sông Hương có thể thơm mùi hoa chanh, hoa bưởi. Nhưng mùi ngầy
ngậy…thì không bao giờ!!!
Tôi ngước lên, phóng tầm
mắt về phía trước. Cách khoảng vài chục mét, một người đang thong thả tản bộ
cùng chiều với tôi. Vì khoảng cách hơi xa, thị giác chưa thực sự trở lại bình
thường, và lại là vùng hơi tối của con đường (vì tiết kiệm điện nên người ta
bật đèn cách quãng), nên tôi không thể nhận dạng được người ấy một cách cụ thể.
Nhưng mùi hương ấy nói với tôi rằng:- Đó không chỉ là một phụ nữ, mà còn
là một phụ nữ đang tuổi hồi xuân!
Khi ý nghĩ ấy thoáng qua,
tôi bật cười với chính mình! Thực ra nhận xét ấy không phải là của tôi. Mà là
của ông bạn vong niên, đã sống cùng tôi một thời gian dài ở nước ngoài thuở xa
xưa. Lần ấy, chúng tôi vừa ngồi uống rượu, vừa xem ti vi nói về tuổi “Hồi xuân”
của phụ nữ. Lúc đó tôi còn trẻ, nên chưa chú ý lắm. Còn ông bạn của tôi thì
thích mê man. Nhưng được một lúc, ông ấy vớ lấy cái điều khiển bấm cái tách, ti
vi tắt ngủm.
- Sao, anh chán hồi xuân
rồi à?- Tôi ngạc nhiên hỏi. Ông ấy vừa lắc đầu vừa nói
- Lý thuyết quá, toàn
trên trời dưới biển. Mày biết không! Cái hội phụ nữ hồi xuân, hai con mắt của
họ như hai núi lửa phun trào, còn cơ thể lại có một mùi hương vô cùng đặc
biệt!
Tôi bắt đầu thấy hấp dẫn,
liền hóng hớt hỏi:
- Họ thơm lắm à?
Vớ lấy cốc Vodka uống cạn
một hơi, ông ấy trả lời bằng cái giọng của một giáo sư đầu ngành, chuyên nghiên
cứu về nhân chủng học:
- Phụ nữ thì ai chả thơm.
Hương thơm cũng là một thứ vũ khí lợi hại của chị em. Nhưng đấy là mùi thơm của
phấn, nước hoa, xà bông…tóm lại là ngoại lai. Nhưng phụ nữ hồi xuân lại giống
bông hoa, tự tỏa ra một mùi hương rất lạ, nó nồng nàn, ngầy ngậy vô cùng quyến
rũ. Nó giống như từ trường của thanh nam châm vậy. Bọn đàn ông mà rơi vào đấy,
thì chỉ có từ trọng thương…đến hy sinh anh dũng mà thôi!!!
Nói xong, ông ta ngửa mặt
nhìn lên trần nhà, như nhớ về cái gì đó.
- Anh đã bị rồi à!
Thấy thế nào? Bị trọng thương, hay hy sinh?
Tôi dồn dập hỏi. Làm
một tợp rượu, ông ta gật gù trả lời:
- Không có đáp án cho câu
hỏi này. Sốt ruột làm gì, cậu còn trẻ mà. Sau này thế nào cũng có lần lâm
trận…cứ yên trí!!!
…Trời ơi, cái mùi “Ngầy
ngậy” đang cách tôi vài chục mét đây thôi. Mình đang lâm trận rồi sao? Tôi bình
tĩnh đánh giá tình thế của thực tại:- Có cái quái gì đâu, toàn thần hồn
nát thần tính… Chỉ là cái mùi ngầy ngậy thôi mà!- Tôi tặc lưỡi bước
tiếp. Dẫu đã trấn an như vậy, nhưng không hiểu sao, các bước chân của tôi cứ
như có gió đẩy phía sau. Chúng hối hả như vận động viên Ma-ra-tông chạy nước
rút vậy.- Mình bây giờ chắc giống con ếch đang bị cái mồi hoa mướp
thôi miên đây!- Tôi vừa cười cợt mình vừa bước đi hối hả.
Chỉ mấy phút, tôi đã gần
đuổi kịp cái mùi ”Ngầy ngậy” kia. Đó là một phụ nữ, tuổi trên dưới bốn mươi,
tóc để xõa sau lưng, nhưng trên đầu vẫn đội một cái mũ vải trắng, có cái lưỡi
trai hơi dài, xoay ngược về phía sau. Cùng cái quần sọc trắng ngắn, và cái áo
thun trắng ba lỗ bó sát người, toàn thân người phụ nữ dưới ánh đèn như tự phát
sáng lấp lánh. Các bước chân của tôi tự động chậm lại. Cả một vùng không gian
ba bốn mét sau cô ấy, tràn ngập một mùi hương không thể gọi tên. Chúng mộng mị
đầy ma lực. Tôi chầm chậm hít hà, mê man trong mùi hương đó.- Chắc là vùng
từ trường nguy hiểm đây, mình phải bứt lên, không lại trọng thương bây
giờ!- Tôi tự nhủ và tăng tốc.
Nhưng, trên cõi đời này, nhiều
thứ không phải lúc nào cũng theo ý mình!!! Khi tôi vượt qua người phụ nữ,
khoảng ba bốn bước chân, đang đắc ý, là mình đã thoát khỏi vùng nguy hiểm một
cách đơn giản, thì nghe một tiếng “huỵch”, đồng thời một tiếng kêu như rên,
nhói cả tim:
- Ôi! Đau quá!!!
Tôi quay phắt lại. Người
phụ nữ đã bổ xuống lề đường với tư thế “vồ ếch”, hai đầu gồi và hai bàn tay
chống xuống nền gạch. Tôi lo lắng chạy lại hỏi:
- Cô bị vấp à? Có đau
lắm không. Để tôi giúp.
Người
phụ nữ rên rỉ không nói nên lời, chỉ xuống bàn chân phải. Thì ra, vì không để
ý, cô ấy đã vấp phải cái vòng sắt trên một cái nắp hố ga còn mới tinh trên
đường. Những người thợ khi đặt nắp hố ga, đã không đập cho những vòng sắt ấy
nằm xuống, nên vô tình đã tạo ra những cái bẫy vô cùng nguy hiểm. Mũi bàn chân
phải nhỏ bé cùng với cái giầy ba ta trắng, mắc cứng trong cái vòng sắt đó. Nâng
người phụ nữ đứng lên, bảo cô ấy vịn vào vai, tôi lựa cho thuận chiều, từ từ
rút bàn chân ra khỏi cái bẫy quái ác. Chắc bàn chân bị gập quá mức, nên đã bị
bong gân. Còn chân trái thì chắc trầy da, máu loang đỏ cả vùng đầu gối. Tóm lại
người phụ nữ không thể đi lại được nữa.
- Nhà cô ở đâu? Tôi đưa
về. Có thể cô phải vào bệnh viện cũng nên.
Chỉ tay về phía đầu con
đường cô nói:
- Dạ, cảm ơn anh. Nhà em
là quán cà phê Mimosa ở ngay khúc cua đầu đường kia ạ. Cảm phiền anh gọi giùm
em chiếc xích lô là được.
Quán cà phê này tôi biết.
Nó chỉ cách chỗ chúng tôi đang đứng khoảng ba trăm mét. Cũng may, con đường này
dẫn về chợ đầu mối, nên dù mới sáng sớm, đã thấy nhiều loại phương tiện thô sơ,
chở hàng ngược xuôi hối hả. Tôi vẫy một cái xích lô, dìu người phụ nữ lên xe,
nhờ người đạp xích lô đưa cô ấy về nhà.
- Cô nhớ phải đến bác sỹ nghe.- Tôi dặn với theo.
- Cô nhớ phải đến bác sỹ nghe.- Tôi dặn với theo.
- Dạ, cảm ơn
anh nhiều.- Cô cảm ơn tôi lần nữa.
Tôi nhìn theo đến tận lúc,
cái xích lô rẽ trái, mất hút nơi đầu đường, mới tiếp tục công cuộc đi bộ của
mình. Có con côn trùng gì đó đậu lên cánh mũi, làm tôi ngứa khó chịu. Tôi đưa
tay phẩy nó đi. Chợt mùi hương của người phụ nữ bất ngờ tỏa ra từ bàn tay tôi.
Lạ thật, tại sao lúc bên cô ấy, tôi không ngửi thấy chi hết. Tôi đã đỡ cô ấy
đứng dậy, đã rút chân cô ấy ra khỏi vòng sắt. Thậm chí, cô còn tựa hằn vào tôi
cả mấy phút, mà có thấy chi đâu? Chợt nhớ hai câu thơ của Xuân Diệu:- Tôi
muốn buộc gió lại. Cho hương đừng bay đi…- Không biết cụ Xuân Diệu đã lấy thi
hứng để viết bài này từ đâu? Hay cụ cũng đã “lâm trận” như tôi lúc nãy. Là nhà
thơ lớn có khác, cụ có ngay một bài thơ hay nức nở. Còn tôi, người trần mắt
thịt, chẳng thấy gì, ngoài cái mùi hương ngầy ngậy… còn phảng phất trên hai bàn
tay mà thôi! Làm sao tôi có thể ”buộc” chúng lại được bây giờ?
Bẵng đi cả tuần lễ, sự cố
hôm nọ tôi đã quên từ lâu. Đã vào cuối mùa hạ, tôi càng chăm chỉ đi bộ. Chỉ hơn
một tháng nữa, xứ Huế của tôi sẽ vào mùa mưa bão, lụt lội miên man. Mùa mưa sẽ
kéo dài bốn năm tháng, suốt thời gian ấy, mọi sự rèn luyện ngoài trời coi như
cấm chỉ, buồn thật!
- Chào anh.
Khi tôi đang nghĩ về mùa
mưa, thì nghe tiếng chào như ngân lên sau lưng. Tôi quay lại, nhận ra người phụ
nữ hôm nọ. Vẫn cái mũ vải có lưỡi trai dài, đội ngược về đằng sau, cùng bộ đồ
trắng hôm ấy.
- Chào cô! Chân cô
thế nào rồi?- Tôi ân cần hỏi thăm!
- Dạ, khỏi rồi ạ. Hôm
nay em bắt đầu đi lại. May quá…
Tôi hiểu hai từ “may quá”
của cô theo một ý khác, nên nhanh nhảu tiếp lời:
- Ừ, hơn một tuần đi được
là may rồi. Nếu là tôi, thì có khi rên hàng tháng cũng nên!
Người phụ nữ bất chợt quay
mặt sang phía tôi:
- Không! Em nói may
quá…không có ý như vậy!
Tôi không hiểu cô định nói
gì, bèn hỏi lại:
- Thế cô bảo: May
quá…là sao?
Sau mấy giây chần chừ, cô
trả lời như cái kiểu, người vừa trút được gánh nặng:
- May là được gặp
anh. Em mong…được gặp anh!!!
Tôi cười phá lên như chưa
bao giờ được cười:
- Trời ơi! Từ lúc cha sinh
mẹ đẻ đến giờ, chưa ai mong gặp tôi cả! Cô là người đầu tiên muốn điều đó. Cảm
ơn cô nhiều lắm!
Người phụ nữ giọng như hờn
dỗi:
- Anh thấy em buồn cười
lắm à? Em mong gặp, để cảm ơn anh thôi mà!!!
- Cô có phải là Công tằng
Tôn nữ ….gì đó không? Mà bài bản quá vậy. Chỉ là chuyện bình thường, ai cũng
nên giúp đỡ nhau thôi mà!
Tôi lấy cái giọng đùa cợt
để xoa dịu cô ấy. Im lặng một lúc, người phụ nữ mới cất tiếng nói. Tôi ngỡ như
cô ấy tự sự vậy:
- Em chỉ có một nửa là
Công tằng…thôi. Ba em người Đà Lạt, mạ em người Huế.
- Tôi hiểu rồi. Thảo nào
quán cà phê của cô lại có tên là Mimosa…Cô đặt tên quán như vậy, để nhớ về quê nội phải không?
Tôi quan tâm hỏi.
- Em cũng không rõ lắm.
Lúc làm quán, cái tên Mimosa tự nhiên hiện lên trong đầu em, cả nhà cũng không
ai có ý kiến gì, nên em đặt như vậy.
Người phụ nữ giải thích
với cái giọng rất chân thật.
- Anh đã ghé vô quán của
em lần nào chưa?- Cô đột ngột hỏi.
- Chưa, nhưng tôi đã đi
qua rất nhiều lần, nên biết.- Tôi thật thà trả lời.
- Mời anh ghé vô, để em
chiêu đãi cà phê nhé.- Cô chân thành mời.
- Cảm ơn cô. Nhất định là
tôi sẽ ghé. Tôi là dân nghiền đây mà.- Tôi hứa với cô rồi nói:
- Thôi, cô từ từ đi nghe.
Tôi phải đi nhanh, cô không theo kịp đâu, mệt lắm. Mà nhớ chú ý cái vòng sắt
hôm nọ nghe chưa?
- Dạ. Em phải cảm ơn nó
cũng nên!- Cô trầm ngâm nói.
- Cô cảm ơn vì nó chưa làm
cô gẫy chân hả?- Tôi tò mò hỏi.
- Một phần thôi. Cái
chính là nó đã giúp em làm quen với anh!!!- Cô mỉm cười, nửa như đùa,
nửa như thật.
- Thế thì tý nữa gặp, tôi
cũng cảm ơn nó luôn.- Tôi phụ họa với cô.
Chúng tôi cùng cười vang.
Tôi bước nhanh về phía trước, thấy trong lòng dâng lên một niềm vui là lạ.
Rất nhiều ngày sau đó,
sáng nào chúng tôi cũng gặp nhau, trò chuyện mươi phút trước khi tôi đi nhanh,
còn cô thì nhẩn nha đi với tốc độ thường ngày của mình. Tuy vậy chúng tôi cũng
không có thêm thông tin gì về nhau, chỉ chào hỏi, nói những chuyện không đầu,
không đuôi. Tôi gọi cô bằng biệt danh: Mimosa. Cô bằng lòng với cái tên ấy. Cô
kể cho tôi nghe về Đà Lạt, về các loại hoa, về thung lũng Tình yêu, về hồ Than
thở…-Có lẽ em sẽ chuyển nhà về Đà Lạt.- Tôi nghe loáng thoáng cô nói về điều
đó, nhưng không để ý lắm. Chúng tôi không hỏi tên nhau, không hỏi về gia đình,
con cái, công việc, số điện thoại. Chỉ có điều, là có những buổi sớm, vì lý do
nào đó mà cô vắng mặt, thì con đường trở nên vắng vẻ khác thường. Nó như dài ra
rất nhiều. Sáng hôm sau, khi gặp mặt, chúng tôi vui mừng tíu tít, như những
người thân, gặp lại nhau sau bao ngày xa cách! Tôi để ý thấy, những lời mời tới
thăm quán của cô, hôm nào cũng được nhắc lại, với một âm hưởng ngày một mặn mòi
hơn!
Cuối cùng thì cơ hội ghé
thăm quán Mimosa cũng xuất hiện. Sáng chủ nhật hôm ấy, tôi có việc đi qua quán
của cô. Ngày mai tôi bắt đầu một chuyến công tác xa, gần một tháng, nên quyết
định ghé vô. Quán Mimosa là quán cà phê nhỏ tại gia. Ngôi nhà lầu nằm
thụt sâu vào bên trong khuôn viên, nhường khoảnh đất mặt tiền, độ vài chục mét
vuông bán cà phê. Toàn bộ không gian này, được dựng một giàn bằng ống sắt chắc
chắn, cao khoảng gần 5m. Trên giàn được phủ một tấm lưới màu xanh da trời, rất
nhiều giò lan treo phía dưới, đây đó những chùm hoa dài buông xuống khoe sắc
rực rỡ. Khoảng mươi bộ bàn ghế nhỏ xinh xắn dành cho khách, được đặt chạy theo
sát hàng rào chè tàu, bao lấy khuôn viên quán. Cà phê Mimosa giản dị, với hoa,
với nhạc Trịnh không lời du dương, tạo ra một không gian thanh bình, thư giãn
giữa chốn thị thành đô hội.
Khi tôi bước vô, cô đang
mang cà phê cho mấy cô cậu thanh niên, (chắc là sinh viên) họ đều chăm chú dán
mắt vào các máy tính bảng đặt trên đầu gối. Tôi chọn một bàn tận góc vườn bên
kia, ngồi quay lưng về phía họ. Phục vụ mấy sinh viên xong, cô cầm chiếc khay
đi lại phía tôi:
- Chào anh! Anh dùng gì ạ?
Tôi giả vờ như không nghe
thấy, cắm cúi đọc mấy cái tin trên điện thoại.
- Anh dùng…
Khi cô đang hỏi lại lần
thứ hai với một ngữ điệu rất nhẫn nhịn, thì tôi ngửng lên, quay mặt về phía cô.
Cô đứng sững, miệng hơi mím lại, tuyệt đối không có một phản ứng chi về hình
thể. Lần đầu tiên chúng tôi nhìn rõ mặt nhau trong ánh sáng ban ngày. Cô có một
gương mặt ưa nhìn và đôi mắt buồn thăm thẳm.- Sao đôi mắt này không giống
hai núi lửa phun trào…nhỉ?- Khi đang thầm thắc mắc, thì tôi nhận thấy ánh
mắt của cô rạng dần lên, cuối cùng thì nó rực lên như nắng, lấp lánh những tia
cười. Cả gương mặt cô ửng hồng. Một nụ cười như mãn nguyện, như hạnh phúc tỏa
sáng, ẩn hiện trên đôi môi của cô!
- Em cứ tưởng, anh là dân xã hội đen kia đấy!!!- Cô trêu tôi.
- Em cứ tưởng, anh là dân xã hội đen kia đấy!!!- Cô trêu tôi.
- Thì tôi từ bóng tối bước
ra mà. Sao cô lại làm một mình vậy? Có cần thuê nhân công không? Tôi đang rảnh
đây!- Tôi đùa với cô.
- Em làm một mình ba năm
nay rồi, mời anh vô trong nhà.
Cô cầm tay, kéo tôi đứng dậy.
Bàn tay cô mềm mại và ấm nóng lạ thường. Tôi theo cô vào trong. Đó là căn phòng
đầu hồi của ngôi nhà, nơi pha chế cà phê. Một bộ sa lon nhỏ, kê bên cạnh cửa sổ
nhìn ra vườn. Trên mặt quầy pha chế, mấy chục phin cà phê đã được ủ sẵn, tỏa
hương thơm ngào ngạt. Cô mời tôi ngồi xuống ghế, rồi rối rít chuẩn bị.
- Thôi, cô cứ cho tôi một
phin đã ủ sẵn là được. Pha mới làm gì cho mất công.- Tôi ái ngại đề nghị.
- Không được, anh là khách
đặc biệt, nên phải có cà phê đặc biệt chứ!- Cô vừa làm, vừa nói với tôi.
- Tất cả khách hàng đều là
Thượng Đế…sao lại có cà phê thường và cà phê đặc biệt vậy? Quán này thiên vị
quá.- Tôi đùa cô.
Cô bê phin cà phê và hai
ly trà nóng đặt lên bàn, rồi ngồi xuống cạnh tôi chậm rãi nói:
- Vâng, mọi
khách hàng đều là Thượng Đế của quán. Nhưng anh thì không phải!- Cô
mỉm cười bí hiểm.
- Tôi hiểu rồi, tôi được
chiêu đãi không phải trả tiền, nên không được làm Thượng Đế chứ gì?- Tôi giả bộ
lý giải.
Quay lại nhìn tôi với ánh
mắt thật lạ, hai bàn tay cô ôm chặt lấy cánh tay trái của tôi ép vào lòng, cô
nói qua hơi thở gấp:
- Anh là Thượng Đế
của riêng em thôi!!!
Tôi không kịp phản ứng
chi. Cô ngả đầu vào vai tôi. Mùi thơm từ cô dâng đầy quanh tôi át cả mùi cà
phê. Tôi có cảm giác trôi bồng bênh trong mùi thơm ấy.
- Cảm ơn anh đã đến
với em! Anh ôm em một lần được không?
Tiếng cô rì rào như tiếng
gió nhưng bỏng cháy thiết tha. Trong tôi dâng đầy những cảm xúc mâu thuẫn lẫn
lộn. Tôi không muốn đi quá xa, để cô hiểu lầm tình cảm của mình. Nhưng tôi cũng
không thể phũ phàng từ chối, để làm cô tổn thương. Tôi mơ hồ nhận ra rằng: Tâm
hồn cô đang dồn nén một nỗi cô đơn khủng khiếp! Nỗi cô đơn ấy đã làm cô suy
kiệt mọi sức lực. Trái tim cô đang khát khao mãnh liệt, một tình yêu chân
thành, một hạnh phúc gia đình bình yên!- Mình đừng lợi dụng tình cảm của
cô ấy là được.- Quyết định như thế, tôi vòng tay ôm lấy cô, như thể ôm
người em gái của mình vậy. Cô cũng ôm lấy tôi, với vòng tay xiết chặt, toàn
thân cô như sắp bùng cháy. Cô ngửa mặt lên, mắt nhắm nghiền, đôi môi ngọt ngào,
nóng bỏng căng lên, da diết. Sau giây lát lưỡng lự, tôi đặt một nụ hôn lên trán
cô.
Có tiếng xe máy của khách
rẽ vào quán. Tôi buông tay khỏi hai bờ vai của cô. Cô ghì lấy tôi lần cuối, hôn
thật nhanh lên má tôi, rồi đứng dậy đi ra ngoài đón khách. Phải một lúc, tôi
mới tĩnh tâm trở lại. Ngó qua cửa sổ, thấy ông khách vừa đến đang ngồi trên cái
ghế tôi ngồi lúc nãy. Ông đang lau đôi bàn tay đen ngòm của mình bằng cái khăn
vải, cũng đen kít như vậy.
- Sao cô có ông khách,
giống thợ sửa ống khói thế?
Khi cô quay lại, tôi lập
tức hỏi, để cả hai không bị ngượng nghịu, bởi những gì vừa xảy ra.
- À, ông ấy chuyên đi
đưa than Lào, sáng nào cũng ghé đây. Anh uống cà phê đi.- Cô vừa trả lời, vừa
đưa ly cà phê vào tay tôi.
- Than Lào là than chi?
Dùng để làm gì? Tôi tò mò hỏi.- Cô mỉm cười giải thích:
- Là than củi buôn từ Lào
về. Nó dùng sưởi cho phụ nữ khi nằm ổ, và có thể nướng thịt, nướng bánh đa nữa.
Nghe cô giải thích xong,
tôi bất giác bật cười, nhưng không dám cười to, chỉ khùng khục trong cổ họng.
Cô ngồi xuống cạnh tôi ngơ ngác hỏi:
- Anh cười chi vậy?
Dứt trận cười, tôi quay
lại nắm lấy hai bàn tay của cô nói với tất cả tâm tình:
- Anh rất hạnh phúc vì
những tình cảm của em dành cho anh. Nhưng anh…cũng chỉ giống như những khúc
than Lào kia mà thôi! Em cần một chỗ dựa vững vàng hơn! Với lại…
Khi đang định nói tiếp về
gia đình của mình, thì thấy cô từ từ rút hai bàn tay ra khỏi tay tôi, quay mặt
ra hướng khác. Nhìn hai bờ vai cô rung rung, tôi hiểu cô đang khóc. Để một vài
phút trôi qua, tôi quay mặt cô lại, lấy tờ giấy ăn trên bàn, thấm nước mắt cho
cô.
- Sao số em lại khổ thế
không biết! Nhưng dù sao em cũng sẽ nhớ anh nhiều lắm!- Cô nghẹn ngào nói.
- Anh đi công tác về,
chúng ta lại gặp nhau mỗi ngày mà.- Tôi an ủi cô.
- Anh nhớ giữ sức khỏe.
Không biết bao giờ mới lại được gặp anh. Em buồn lắm!- Giọng cô nói, kiểu
như một lời ly biệt!!!
Một tháng công tác trên
vùng núi trôi qua thật lâu. Nhưng cuối cùng thì nó cũng kết thúc. Tôi kiếm được
hai giò lan Hài rất quý. Về đến thành phố, tôi quyết định mang tặng cô một giò.
Khi bước vào quán, tôi cảm giác có điều gì khác lạ đã xẩy ra ở đây. Cảnh vật
vẫn vậy, những giò lan vẫn còn đó, những bộ bàn ghế vẫn y nguyên trên các vị
trí cũ. Nhưng không còn những bản nhạc Trịnh du dương nữa, mà thay vào đấy là
những bản nhạc trẻ sôi động, mở khá to. Tôi tiến thẳng đến cái ghế lần trước.
Vừa đặt giò lan lên giữa bàn, tôi đã nghe thấy tiếng hỏi:
- Bác dùng gì ạ?
Tôi ngửng lên. Một cô gái
tuổi mười chín đôi mươi, đang nhìn tôi với những ánh mắt háo hức và đon đả.
- Cháu mới tới làm ở đây à?- Tôi dè dặt hỏi.
- Cháu mới tới làm ở đây à?- Tôi dè dặt hỏi.
- Không, đây là quán nhà
cháu.- Cô gái trả lời với một chút kiêu hãnh.
- Tháng trước, bác có vô
đây, nhưng thấy cô chủ tự bán, có chồng con phụ giúp gì đâu?- Tôi ngạc
nhiên hỏi.
- À, đấy là cô Thùy Mai.
Cô ấy có hai cô con gái sinh đôi, nhưng đang học đại học trong Sài Gòn.
- Thế ở đây chỉ có vợ
chồng cô Mai thôi à?- Tôi dò hỏi.
- Không! cô ấy sống một
mình, chú ấy đã mất ba năm nay rồi.
Một bí mật được hé mở.
- Sao cháu biết rõ
thế?- Tôi kích động cô gái.
- Nhà cháu bên kia, ngay
sau nhà cô Mai mà!
Cô gái nhanh nhảu trả lời.
Tôi gật gù ra vẻ hiểu, rồi hướng về cái biển: CÀ PHÊ BÓNG ĐÁ mới toanh, treo ngay
ngoài cửa ra vào.
- Ở đây mới lắp K+
à?- Tôi tò mò hỏi?
- Dạ!
Cô gái trả lời trong tiếng
thở dài, rồi đột nhiên nhìn thẳng vào mắt tôi, đặt một câu hỏi, vừa ngây thơ,
vừa như của một vị quan tòa:
- Bác có hay cá độ
bóng đá và đánh đề không ạ?
- Bác không thích mấy thứ
đó. Mà trông bác giống dân cá độ lắm à? Tôi mỉm cười hỏi.
- Dạ, cháu không biết,
nhưng đàn ông ở đây ai cũng mê những thứ đó.
- Thế chồng cô Mai cũng
chơi cá độ à?- Tôi như tiện mồm hỏi.
Cô gái thở dài, rồi kể cho
tôi nghe câu chuyện buồn của Mai:
- Chú ấy không chỉ thích,
mà còn nghiện nặng. Chú ấy bán hết mọi thứ để cá độ. Nhà lúc nào cũng như
có chiến tranh. Khi hết đồ, chú ấy lấy cả tiền vốn của cô Mai mang đi. Cô Mai
không đưa, thì chú ấy đánh như đánh kẻ thù. Mọi người nhiều lần chạy sang can,
nhưng cũng chẳng ăn thua. Cô ấy đã mấy lần nhập viện. Vô đó toàn nói dối là bị
tông xe. Ai cũng khuyên nên ly dị, nhưng cô ấy cứ nói, là sẽ cố chịu để cho các
con có bố!!! Ba năm trước vì nợ nhiều quá, chú ấy bị bọn chủ độ đâm chết trong
một vụ xô sát ngay bên bàn nhậu. Dạo đó, tòa án lưu động của thành phố, đã xử
vụ án này tại ủy ban phường. Ai cũng biết, sao bác không biết ạ?
Tôi lắc đầu. Tai tôi ù
lên:- Mai ơi! Sao cô lại im lặng như thế? Sao cô lại biến tôi thành kẻ vô
tâm quá vậy!!!-Tôi tự giằn vặt mình.
- Thế bây giờ cô Mai ở
đâu?- Tôi cố bình tĩnh hỏi.
- Sau khi bán nhà cho nhà
cháu, cô ấy đã chuyển vô Đà Lạt cách đây khoảng hơn mười ngày rồi ạ.
Câu trả lời của cô gái,
như một trái núi sụp đổ trong lòng tôi. Trái tim tôi đau nhói. Tôi lơ đễnh ngó
lên, những chùm hoa lan đang chao trong gió, mấy cánh hoa rơi rơi như những
giọt lệ buồn, như những bàn tay vẫy vẫy.
- Bác uống gì ạ?- Cô
gái kéo tôi về thực tại.
- Cho bác một ly đen không
đường.- Tôi đáp như một cái máy.
Tôi nhấm một hớp nhỏ, cà
phê đắng tê cả lưỡi. Không! Cô ấy không phải là Thùy Mai. Tên cô ấy là Mimosa.
Tôi giơ tay ôm lấy đầu, hai bàn tay tôi không còn tỏa ra mùi hương của cô ấy
nữa. Nó chỉ còn khét lẹt mùi bùn đất và nắng gió. Tôi nhắm mắt cúi đầu xuống
bàn. Thật lạ lùng, trong thẳm sâu của nỗi nhớ, mùi thơm ngầy ngậy quyện hương
bưởi, hương chanh thơm ngát của cô, từ từ dâng lên ngây ngất. Tôi nghe thấy
tiếng lòng mình nấc nghẹn xót xa: Mimosa! Bây giờ em ở đâu? Mimosa!
Huế 31/10/2013
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 06.11.2013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Quê ơi!
- Truyện ngắn Hoàng
Thảo Chi
Thứ
ba - 09/04/2013 19:33
Khi đã
có vài chén, nói chuyện về quê cũ, bao giờ tôi cũng nói: Ngày xưa quê tao đẹp
lắm. Còn thằng bạn tôi thì luôn chặn họng tôi một câu: Đúng là mèo khen mèo dài
đuôi. Cái xứ nhà mày, chỉ có…tõm…là nhất nước, khổ hơn ma đói, đẹp tốt cái nỗi
gì!!! Thôi, chấp làm chi cái thằng hay có tính “ghen ăn, tức ở” ấy cơ chứ. Như
không nghe thấy điều hắn nói, kệ hắn với chiếu rượu, tôi thả hồn bay về với quê
xưa trên đôi cánh tuổi thơ của mình. Tuy có buồn lòng chút ít, nhưng cũng phải
công nhận thằng bạn đã nhận xét về quê tôi rất chí lý. Nhưng các cụ đã dạy: Lời
nói không mất tiền mua…
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
QUÊ ƠI!
Khi đã có vài chén, nói
chuyện về quê cũ, bao giờ tôi cũng nói: Ngày xưa quê tao đẹp lắm. Còn thằng bạn
tôi thì luôn chặn họng tôi một câu: Đúng là mèo khen mèo dài đuôi. Cái xứ nhà
mày, chỉ có…tõm…là nhất nước, khổ hơn ma đói, đẹp tốt cái nỗi gì!!! Thôi, chấp
làm chi cái thằng hay có tính “ghen ăn, tức ở” ấy cơ chứ. Như không nghe thấy
điều hắn nói, kệ hắn với chiếu rượu, tôi thả hồn bay về với quê xưa trên đôi
cánh tuổi thơ của mình.
Tuy có buồn lòng chút ít,
nhưng cũng phải công nhận thằng bạn đã nhận xét về quê tôi rất chí lý. Nhưng
các cụ đã dạy: Lời nói không mất tiền mua… Nó nói thẳng quá, dẫu đúng nhưng cứ
thấy tức anh ách… bực thật! Phải, không biết tự bao giờ, cái tên “Cầu Tõm” mặc
nhiên gắn cho cái vùng đất đồng chiêm trũng Hà Nam Ninh ngày xưa, ngày nay là
Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam. Cái xứ cầu Tõm nhà tôi quả thật là nghèo khổ nhất
hành tinh, chứ đừng nói là chỉ trên xứ Việt Nam mình. Nhưng tôi đã đi qua tuổi
thơ của mình trên vùng đất ấy, một vùng quê chan hòa nắng gió, cây cỏ biếc
xanh, trời cao vời vợi, với những người nông dân chân lấm tay bùn, ăn sóng nói
gió… Đó là vùng quê cổ tích tuổi thơ tôi.
Thuở bé, ngôi làng của tôi nhỏ như hạt đậu. Tất thảy chỉ có gần ba chục nóc nhà. Làng chạy theo hướng Tây-Đông, có bốn dãy ao chạy song song. Khi đào bốn dãy áo đó, các vị tiền bối đã quật đất lên tạo thành ba khu đất chạy bên những hàng ao, chia nhau làm nhà mà lập nên làng. Ở đầu làng (phía Tây) là khu đất của đình và chùa. Có lẽ vì làng tôi quá nhỏ nên đình và chùa cũng rất khiêm tốn. Nhưng trong khuôn viên ấy tôi thấy có tất cả những thứ gọi là hồn cốt của một miền quê: Đình, chùa, sân đình, cây đa, giếng nước… Lưu lạc muôn nơi, mỗi khi nhớ về quê hương, nỗi nhớ của tôi chia ra hai mảng. Một mảng về gia đình. Một mảng về với làng quê, đình chùa, cây đa giếng nước. Làng tôi có tự bao giờ? Tôi đã hỏi Thày tôi, nhưng ông quả quyết là ông cũng không biết. Như vậy, làng tôi đích thị là có từ ngày xửa, ngày xưa!
Thuở bé, ngôi làng của tôi nhỏ như hạt đậu. Tất thảy chỉ có gần ba chục nóc nhà. Làng chạy theo hướng Tây-Đông, có bốn dãy ao chạy song song. Khi đào bốn dãy áo đó, các vị tiền bối đã quật đất lên tạo thành ba khu đất chạy bên những hàng ao, chia nhau làm nhà mà lập nên làng. Ở đầu làng (phía Tây) là khu đất của đình và chùa. Có lẽ vì làng tôi quá nhỏ nên đình và chùa cũng rất khiêm tốn. Nhưng trong khuôn viên ấy tôi thấy có tất cả những thứ gọi là hồn cốt của một miền quê: Đình, chùa, sân đình, cây đa, giếng nước… Lưu lạc muôn nơi, mỗi khi nhớ về quê hương, nỗi nhớ của tôi chia ra hai mảng. Một mảng về gia đình. Một mảng về với làng quê, đình chùa, cây đa giếng nước. Làng tôi có tự bao giờ? Tôi đã hỏi Thày tôi, nhưng ông quả quyết là ông cũng không biết. Như vậy, làng tôi đích thị là có từ ngày xửa, ngày xưa!
Nếu lấy compa quay một
vòng tròn, thì làng tôi chính là cái tâm của vòng tròn ấy. Tất cả các làng
trong xã của tôi và một số làng của các xã khác đều nằm trên cung của vòng tròn
đó. Khoảng cách từ làng tôi, đến các làng khác đều là những cánh đồng bát ngát,
biếc xanh lúc lúa đang thời con gái, vàng rực khi lúa đã uốn câu. Đó là một
điều làm tôi vô cùng thích thú, và luôn hồi hộp đến nôn nao, khi theo dõi cánh
đồng trong suốt thời gian nó chuyển màu.
Làng tôi tên là Bói Trung.
Nhưng cái tên ấy chỉ để ghi trên các loại giấy tờ. Còn bàn dân thiên hạ chỉ gọi
làng tôi là làng Bói. Làng tôi chẳng có ai làm thày bói, sao lại gọi là làng
Bói? Câu hỏi này chẳng ai trả lời tôi cả, đành chịu vậy. Từ làng tôi nhìn xuống
hướng Nam, là hai làng: Bún Thôn và Bún Trại. Hai làng này dính liền với nhau
thành một vệt dài. Chẳng biết có đúng hay sai, nhưng chắc là hai làng này có
nhiều người làm bún, bánh cuốn, bánh đa… nên mới đặt tên làng là làng Bún. Chị
dâu thứ hai của tôi cũng là người làng Bún. Về nhà tôi làm dâu, chị mang theo
nghề làm bún, bánh cuốn. Đã có một thời gian rất dài chị làm bún, rồi bán bún
riêu cua ở chợ Huyện (tên chợ quê ở vùng tôi), nuôi được cả một lũ con đông như
quân Nguyên!!! Làng Bún có bà Cối (mọi người bảo là bà bị điên, nhưng tôi thấy
bà rất hiền lành) sáng nào cũng đi chợ từ rất sớm. Cứ ra khỏi cửa là bà bắt đầu
chửi, chửi hết phiên chợ, chửi về đến nhà mới thôi. Không biết bà chửi cái gì,
không ai quan tâm, không ai nhớ. Tiếng chửi của bà theo gió vọng khắp mọi nơi
như chiếc đồng hồ báo thức. Mỗi sớm nghe tiếng chửi của bà Cối, mẹ tôi và mấy
bà dì lại gọi nhau: Đi chợ thôi, bà Cối chửi rồi đấy. Làng Bún còn một anh (tôi
không còn nhớ tên là gì) đep trai trắng trẻo và luôn tươi cười. Người ta bảo
nhau là anh hay trộm thịt lợn ở chợ. Tuy nhiên chẳng ai bắt được tận tay anh ăn
trộm bao giờ. Vì tò mò nên có lần tôi đã hỏi anh. Anh nhăn răng ra cười bảo:
Bậy, thèm thì mượn tạm mà ăn, lúc nào có thì trả lại cho người ta, chứ ai lại
đi ăn trộm. Rồi anh gật gù bảo tôi: Thèm thịt không? Vào đây, tao đãi mày một
chầu không đứt dải rút không về! Tôi theo anh vào bếp. Anh kiễng chân lấy một
cái niêu đất to treo trên một cái quang trên cao, trịnh trọng đặt xuống giữa
bếp, rồi đi lấy một cái bát ăn cơm và một cái muôi. Khi anh mở vung nồi đất,
tôi vô cùng kinh ngạc không tin vào mắt mình nữa!!! Cả một niêu thịt kho đầy ự,
vàng ươm, thơm phức. Nước dãi tôi ứa ra đầy miệng. Anh xúc cho tôi đầy một bát,
đưa tôi rồi nói: Chén đi, nhà mày đến Tết mới có cơ đấy. Tôi bốc vội một miếng
cho vào mồm, nhai nhống nháo rồi nuốt chửng. Anh khoái chí nhìn cái cách ăn như
sói đói của tôi, gật gù thông cảm: Ăn từ từ thôi, nghẹn bỏ mẹ bây giờ. Thôi,
mày ra hái mấy lá khoai môn gói bát thịt này mang về mà ăn, tao phải đi có việc
bây giờ. Nhưng cấm được nói là tao cho nghe chưa? Tôi dạ, rồi cầm gói thịt chạy
về. Đã mấy chục năm, điều bí mật hôm nay mới nói. Xin vái anh một vái thay cho
lời xin lỗi, nơi suối vàng mong anh bỏ quá cho. Câu chuyện ấy bây giờ không còn
quan trọng nữa, nó chỉ còn giá trị trong kí ức tuổi thơ của tôi mà thôi.
Tiếp theo làng Bún là làng
Tiểu Liêm. Làng Tiểu Liêm có ngôi đình vô cùng vĩ đại trong trí nhớ của tôi.
Mái đình cao vút và những hàng cột gỗ lim mấy đứa giang tay mới ôm hết, đen
bóng, mát rượi mãi mãi đứng sừng sững trong kỉ niệm xưa. Mỗi lần vào thăm điện
Thái Hòa trong kinh thành Huế, nhìn những dãy cột của điện, bao giờ tôi cũng
nhớ về những cái cột đình của làng Tiểu Liêm quê tôi. Hẹn lòng nhất định phải
quay về thăm nơi ấy một lần.
Làng Lê nằm ở hướng Đông
làng tôi, nơi có trường cấp một của xã. Nhà bà Rô nằm sát lớp của tôi. Thỉnh
thoảng khát nước, tôi lại xin phép thầy ra ngoài, chui qua bờ dậu vào nhà bà
xin một gáo nước mưa trong cái lu đặt cạnh gốc cau. Hơn nửa thế kỷ đi khắp thế
gian, tôi chẳng bao giờ tìm được một loại nước uống nào ngọt mát, trong lành
như gáo nước mưa của bà Rô ngày xưa. Làng Lê chắc nhiều người đi công giáo, nên
có một nhà thờ rất to. Tôi không dám ghé thăm nhà thờ, vì nghe nói trong đó có
tượng Chúa Giê su bị đóng đinh lên thánh giá, tôi sợ. Nhưng tiếng chuông nhà
thờ đã ru tôi chiều chiều, sớm sớm ngay từ lúc tôi mới lọt lòng. Làng Lê có anh
Lưa cao lênh khênh, có khi trên hai mét cũng nên. Khi tát nước gầu sòng, anh
luôn cao hơn ba cái cột gàu một gang. Chỗ anh tát nước bao giờ cũng có bốn năm
chị xúm đến chọc ghẹo. Tôi nhớ có một chị bạo mồm nhất luôn làm anh bối rối,
bởi chị cứ ỡm ờ hỏi trống không: Này, người cao thế kia, cái ấy…chắc khiếp lắm
nhỉ??? Anh Lư thì đỏ mặt tía tai, còn các chị thì cười như nắc nẻ, đấm nhau
thùm thụp. Một chị bảo: Làm sao mà biết, phải khám mới được! Thế là mấy chị hè
nhau lội xuống, còn anh Lưa thì hoảng quá tưởng bị khám thật, vội ù té leo lên
bờ chạy mất tiêu, bỏ luôn cả buổi tát nước. Những tiếng cười phá lên nao nức,
đuổi theo những bước chân dài như chân lạc đà của anh Lưa, như một đoạn phim cứ
chiếu hoài, chiếu mãi trong tôi.
Tiếp theo làng Lê về hướng
Đông-Bắc, hơi xa một chút là làng Tuộc, làng Quyn, làng Vào, làng Sức. Làng Rồi
nằm ở phía Bắc làng tôi. Phía Tây, cách một con sông đào, là làng Mái, làng Môn
Nha thuộc huyện khác. Tất cả các làng tôi kể trên, bọn trẻ con chúng tôi biết
tất cả mọi nhà, mọi người, thuộc mọi ngóc ngách đường đi lối lại như trong lòng
bàn tay. Cũng vì thế mà nỗi nhớ quê không chỉ giới hạn trong cái làng bé nhỏ
của tôi, mà là cả xã, và còn lan sang tận những làng lân bang thuộc xã của các
huyện khác.
Làng tôi tuy nhỏ, nhưng cũng có rất nhiều cái để nhớ: Ông Như uống rượu không bao giờ say. Khi đi cày luôn đeo một quả bầu khô đựng đầy rượu bên hông. Mỗi khi khát, lại dừng trâu tu một hơi, chưa bao giờ tôi thấy ông uống nước. Ông Qúy (cậu ruột tôi) khi chửi con thì cả xã nghe tiếng. Nếu những người mới tới vùng tôi, nghe ông chửi con thì phát khiếp mà rụng rời chân cẳng: Thằng kia, mày về đây, tao ngâm tôm mày, tao róc xác mày ra… Nhưng ông là người khẩu xà tâm Phật và còn là tuýp người: Vác tù và hàng tổng nữa. Ông rất khỏe và làm tốt rất nhiều thứ. Mọi người gọi ông là: Con dao pha. Từ giết trâu bò heo gà làm cỗ, gói bánh, làm các loại giò… Ông là một đầu bếp ”Vĩ đại” của cả xóm. Làm nề, mộc… Ông làm như một thợ cả lão luyện. Ông rất hay ”ngứa mắt” khi bắt gặp những người làm việc mà lóng ngóng vụng về. Ông chửi toáng lên một hồi, rồi xắn tay làm hộ. Vừa làm vừa chửi: Làm như cứt, tao chỉ vẩy d…một cái cũng bằng mày làm cả ngày… Ông mất vào cái hạn: Bốn chín chưa qua…năm ba đã tới. Cả làng cả xã ai cũng bàng hoàng thương tiếc. Chị Y ở sau lưng nhà tôi, chửi mất gà thì bài bản đệ nhất tỉnh. Hôm nào chị bị mất gà thì cả xóm phải điếc tai mấy ngày. Sáng sớm chị chửi, trưa chị chửi và chập tối lại chửi tiếp. Người lớn thì cằn nhằn, còn bọn trẻ con chúng tôi thì khoái chí vì bài chửi của chị: Này, bọn ăn cắp gà, dỏng tai mà nghe bà chửi đâ..â..ây. Ở nhà bà, nó là con gà, ở nhà mày nó thành Thần nanh mỏ đỏ móc mắt, bóp cổ, bóp hầu chúng mày. Chúng mày ăn gà của bà, đi đằng đông bị thiên lôi đả đằng đông, đi đằng tây thì bão dông mưa đá dập lên đầu chúng mày…. Chị là người làng Rồi về làm dâu làng tôi. Ngày mới về nhà chồng, chị trông nhỏ nhắn, đẹp như một công chúa búp bê vậy. Ông Minh (tôi gọi là bác) thì chuyên môn ngủ gật bất kì ở đâu, thời điểm nào. Có biệt danh là ông Gật. Chân ông bị chai ở gót chân, thỉnh thoảng lại mài dao lạng cái chai ấy đi một mớ. Ông đi đâu cũng cà nhắc cà nhắc, lắc bên này, lắc bên kia cứ như nhảy hiphop vậy. Ông có biệt tài câu cá trê ban đêm. Những mùa nước lụt tháng chín tháng mười, tôi đã nhiều lần chứng kiến những sớm ông trở về trên chiếc thuyền câu với những thúng đầy cá trê vàng nhẫy. Ông thích đánh tổ tôm, nhưng vì tội hay ngủ gật, nên những người cùng chơi, liếc trộm lộ hết cả bài. Ông toàn thua. Một lần vào đêm ba mươi Tết, ông ngồi đun bánh chưng trong bếp, không biết ông ngủ gật say như thế nào, mà bọn trộm vào bê nồi bánh chưng ra sau bếp, lấy hết bánh chưng, để lại cho cái nồi. Khi tôi và anh con trai của ông đi chơi về, thấy mùi bánh chưng thơm nức, tưởng ông đã vớt bánh và đang ép. Hai anh em mừng quá chui vào bếp xem. Hóa ra chỉ là mùi bánh chưng tỏa ra từ cái nồi không sau bếp. Chúng tôi đánh thức ông dậy, thấy cái bếp không ông kêu toáng lên như cháy nhà, chửi vung thiên địa. Tôi chạy về nhà kể chuyện cho mọi người nghe, U tôi cười tí nữa thì chết sặc. Thày tôi bảo tôi xách ra biều ông Minh một cặp bánh chưng để kịp cúng giao thừa. Ông Minh nhận cặp bánh từ tay tôi sắp lên bàn thờ vừa xong, thì từ phía làng Lê, làng Rồi, làng Bún tiếng pháo đã bắt đầu lắc rắc. Biết là sắp giao thừa, tôi co cẳng chạy về nhà, mỗi bước tôi chạy tiếng pháo lại dày thêm đôi chút. Khi tôi vừa chạy vào sân nhà, thì khắp nơi bốn phương tám hướng tiếng pháo trào dâng, vỡ òa như sấm.
Làng tôi tuy nhỏ, nhưng cũng có rất nhiều cái để nhớ: Ông Như uống rượu không bao giờ say. Khi đi cày luôn đeo một quả bầu khô đựng đầy rượu bên hông. Mỗi khi khát, lại dừng trâu tu một hơi, chưa bao giờ tôi thấy ông uống nước. Ông Qúy (cậu ruột tôi) khi chửi con thì cả xã nghe tiếng. Nếu những người mới tới vùng tôi, nghe ông chửi con thì phát khiếp mà rụng rời chân cẳng: Thằng kia, mày về đây, tao ngâm tôm mày, tao róc xác mày ra… Nhưng ông là người khẩu xà tâm Phật và còn là tuýp người: Vác tù và hàng tổng nữa. Ông rất khỏe và làm tốt rất nhiều thứ. Mọi người gọi ông là: Con dao pha. Từ giết trâu bò heo gà làm cỗ, gói bánh, làm các loại giò… Ông là một đầu bếp ”Vĩ đại” của cả xóm. Làm nề, mộc… Ông làm như một thợ cả lão luyện. Ông rất hay ”ngứa mắt” khi bắt gặp những người làm việc mà lóng ngóng vụng về. Ông chửi toáng lên một hồi, rồi xắn tay làm hộ. Vừa làm vừa chửi: Làm như cứt, tao chỉ vẩy d…một cái cũng bằng mày làm cả ngày… Ông mất vào cái hạn: Bốn chín chưa qua…năm ba đã tới. Cả làng cả xã ai cũng bàng hoàng thương tiếc. Chị Y ở sau lưng nhà tôi, chửi mất gà thì bài bản đệ nhất tỉnh. Hôm nào chị bị mất gà thì cả xóm phải điếc tai mấy ngày. Sáng sớm chị chửi, trưa chị chửi và chập tối lại chửi tiếp. Người lớn thì cằn nhằn, còn bọn trẻ con chúng tôi thì khoái chí vì bài chửi của chị: Này, bọn ăn cắp gà, dỏng tai mà nghe bà chửi đâ..â..ây. Ở nhà bà, nó là con gà, ở nhà mày nó thành Thần nanh mỏ đỏ móc mắt, bóp cổ, bóp hầu chúng mày. Chúng mày ăn gà của bà, đi đằng đông bị thiên lôi đả đằng đông, đi đằng tây thì bão dông mưa đá dập lên đầu chúng mày…. Chị là người làng Rồi về làm dâu làng tôi. Ngày mới về nhà chồng, chị trông nhỏ nhắn, đẹp như một công chúa búp bê vậy. Ông Minh (tôi gọi là bác) thì chuyên môn ngủ gật bất kì ở đâu, thời điểm nào. Có biệt danh là ông Gật. Chân ông bị chai ở gót chân, thỉnh thoảng lại mài dao lạng cái chai ấy đi một mớ. Ông đi đâu cũng cà nhắc cà nhắc, lắc bên này, lắc bên kia cứ như nhảy hiphop vậy. Ông có biệt tài câu cá trê ban đêm. Những mùa nước lụt tháng chín tháng mười, tôi đã nhiều lần chứng kiến những sớm ông trở về trên chiếc thuyền câu với những thúng đầy cá trê vàng nhẫy. Ông thích đánh tổ tôm, nhưng vì tội hay ngủ gật, nên những người cùng chơi, liếc trộm lộ hết cả bài. Ông toàn thua. Một lần vào đêm ba mươi Tết, ông ngồi đun bánh chưng trong bếp, không biết ông ngủ gật say như thế nào, mà bọn trộm vào bê nồi bánh chưng ra sau bếp, lấy hết bánh chưng, để lại cho cái nồi. Khi tôi và anh con trai của ông đi chơi về, thấy mùi bánh chưng thơm nức, tưởng ông đã vớt bánh và đang ép. Hai anh em mừng quá chui vào bếp xem. Hóa ra chỉ là mùi bánh chưng tỏa ra từ cái nồi không sau bếp. Chúng tôi đánh thức ông dậy, thấy cái bếp không ông kêu toáng lên như cháy nhà, chửi vung thiên địa. Tôi chạy về nhà kể chuyện cho mọi người nghe, U tôi cười tí nữa thì chết sặc. Thày tôi bảo tôi xách ra biều ông Minh một cặp bánh chưng để kịp cúng giao thừa. Ông Minh nhận cặp bánh từ tay tôi sắp lên bàn thờ vừa xong, thì từ phía làng Lê, làng Rồi, làng Bún tiếng pháo đã bắt đầu lắc rắc. Biết là sắp giao thừa, tôi co cẳng chạy về nhà, mỗi bước tôi chạy tiếng pháo lại dày thêm đôi chút. Khi tôi vừa chạy vào sân nhà, thì khắp nơi bốn phương tám hướng tiếng pháo trào dâng, vỡ òa như sấm.
Thế là một năm mới lại về,
tôi như bay lên trong tiếng pháo vang trời của nhà tôi, của muôn nơi rộn rã lúc
giao thừa. Âm vang ấy đi theo tôi cùng trời cuối đất, luôn ở bên tôi mọi lúc
vui buồn, luôn sưởi ấm tâm hồn tôi, nhắc tôi nhớ về thời tuổi thơ yêu dấu và
mảnh đất chôn nhau cắt rốn, đầy những chuyện cổ tích đời thường. Nhiều lúc nhớ
nhà tôi lại muồn gào lên hai tiếng: Quê ơi!
Huế tháng 4/2013
Hoàng Thảo Chi
Hoàng Thảo Chi
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 09.4.2013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
.
Tiền âm
phủ - Truyện ngắn Hoàng
Thảo Chi (Huế)
Thứ
năm - 07/03/2013 21:43
Phải!
Những chuyện ma quỷ tôi chả bao giờ tin. Nhưng tình cảm của những người mẹ,
những người vợ, những người phụ nữ dành cho chồng con, cho những người thân yêu
kể cả khi họ đã mất đi rồi thì mãi mãi còn đó. Tôi tin như vậy. Hạnh phúc gia
đình được xây đắp, đâu chỉ bằng những vật chất lớn lao, mà nó thực sự bền vững
bởi thật nhiều những chăm sóc yêu thương nho nhỏ và giản dị như vậy. Tôi tự
nhủ: Tất cả chúng ta, hãy làm những điều đó thật nhiều cho những người thân yêu
của mình, trước khi chúng ta phải tiêu bằng tiền âm phủ!
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
TIỀN ÂM PHỦ!
”…Cuối cùng thì Mệ bán
trứng vịt lộn cũng tìm thấy cái nhà có tấm biển: TÈO SỬA XE MÁY, XE ĐẠP… gần
cửa Hữu. Lúc đó đã hơn 9 giờ đêm. Tháng Chạp xứ Huế mưa rên rỉ, lạnh buốt. Mệ
gõ cửa. Cánh cửa bằng tôn kêu: Phành, phành, phành…
- Không sửa nữa đâu, khuya
rồi!- Tiếng người đàn ông nói vọng từ trong nhà ra, giọng ngái ngủ.
- Tôi không chữa xe. Chị
ấy gửi về cho bố con nhà anh mấy quả trứng vịt lộn, tôi mang tới.- Mệ bán trứng
làu bàu.
Cánh cửa tôn bật ra cái
“rầm”, Mệ bán trứng giật nảy mình:
- Nhà anh làm sao vậy? May
tôi đứng xa, không thì đã vỡ mặt vì cái cửa của nhà anh!!!
Người đàn ông như không
nghe thấy giọng trách mắng của Mệ bán trứng, hỏi giật giọng:
- Mệ vừa nói gì ạ?
Mệ già lấy trong cái thúng
cắp bên cạnh sườn, một bọc giấy báo gói mấy quả trứng vịt lộn đặt vào tay người
đàn ông, nói:
- Lúc nãy tôi gặp một phụ nữ ở gần
tháp nước Dã Viên, cô ấy nói là vợ anh. Cô ấy cho tôi địa chỉ nhà và dặn để lại
cho cha con anh mấy quả trứng, trả tiền rồi. Nể tình vợ anh, tôi mới lặn lội
thế này, rét quá. Thôi mấy người ăn cho nóng. Tôi về đây.
Người đàn ông kinh ngạc,
miệng cứng đơ không thốt nên lờì!!!
Sớm hôm sau, vừa mở cửa,
người đàn ông đã thấy Mệ già đứng ngoài.
- Mệ bán trứng đêm qua
phải không? Con biết thế nào sáng nay Mệ cũng tới!!- Anh ta vội vàng hỏi.
- Vâng tôi đây. Chị ấy đâu
rồi?- Giọng Mệ già đầy bực bội.
- Mời Mệ vào trong nhà đã.
Nhà con đây ạ! Hôm qua là ngày giỗ giáp năm của cô ấy.- Người đàn ông chỉ tay
lên di ảnh của vợ trên bàn thờ, giọng như sắp khóc.
- Anh nói chi rứa?- giọng
Mệ run run…
- Vâng! Nhà con bị chết vì
tai nạn tàu hỏa ngay chỗ tháp Dã Viên năm ngoái. Chắc thương nhớ chồng con quá,
thỉnh thoảng cô ấy vẫn hiện lên, mua trứng, trả bằng tiền âm phủ, rồi nhờ người
bán trứng mang về nhà hộ!!!. Con xin lỗi. Con sẽ trả tiền cho Mệ!!!
Mệ già tay run cầm cập,
móc trong túi ra mấy đồng tiền âm phủ có nhiều vết đỏ như màu máu, đã nhận đêm
qua, và mấy tờ tiền thật đặt lên cạnh di ảnh người phụ nữ, chắp tay mếu máo
khấn:
- Cô sống khôn thác
thiêng, phù hộ độ trì cho chồng con cô mạnh khỏe, ăn nên làm ra, nuôi các cháu
nên người. Tôi cũng xin cô bỏ quá, vì tôi người trần mắt thịt mà không nhận ra
cô. Xin cô giúp tôi buôn may bán đắt đủ sống qua ngày. Cầu mong cho cô được
siêu thoát!!!
Mệ già nhận ba nén nhang
từ tay người đàn ông, cúi đầu vái lia lịa. Sau khi cắm nhang lên bát hương, Mệ
còn chắp tay đứng trước bàn thờ một lúc mới quay ra. Qua hàng nước mắt, người
đàn ông nhìn thấy gương mặt Mệ đẫm lệ.
- Thôi, tôi không lấy tiền
trứng đâu, anh mua giùm tôi mấy bao nhang thắp cho cô ấy. Dẫu sao, thì cha con
anh vẫn là những người có phước…- Nói xong, Mệ già cúi đầu lần nữa trước bàn
thờ người phụ nữ xấu số, thở dài rồi đi khỏi…”
Nghe xong câu chuyện, cả
bàn nhậu của bọn tôi lặng đi. Mỗi người đuổi theo một suy nghĩ khác nhau. Anh
bạn ngồi cạnh tôi bỗng dằn mạnh cái bát đánh cốp xuống mặt bàn, giọng đay
nghiến:
- Vợ người ta chết rồi,
vẫn còn chăm sóc cho chồng con. Vợ mình sống sờ sờ, mà cả đời chẳng mua cho
chồng được được cái kẹo, chứ đừng nói là trứng vịt lộn!
Tôi vỗ vai cậu ấy:
- Làm gì có chuyện ma mua
trứng đó, chắc mọi người nói cho vui thôi. Mà cậu có hay mua quà tặng vợ không?
Có cho mới có nhận chứ? Tin chi ba chuyện ma quỷ ấy.
Phải! Những chuyện ma quỷ
tôi chả bao giờ tin. Nhưng tình cảm của những người mẹ, những người vợ, những
người phụ nữ dành cho chồng con, cho những người thân yêu kể cả khi họ đã mất
đi rồi thì mãi mãi còn đó. Tôi tin như vậy. Hạnh phúc gia đình được xây đắp,
đâu chỉ bằng những vật chất lớn lao, mà nó thực sự bền vững bởi thật nhiều
những chăm sóc yêu thương nho nhỏ và giản dị như vậy. Tôi tự nhủ: Tất cả chúng
ta, hãy làm những điều đó thật nhiều cho những người thân yêu của mình, trước
khi chúng ta phải tiêu bằng tiền âm phủ!
27/11/2012
Hoàng Thảo Chi
Hoàng Thảo Chi
©
Tác giả giữ bản quyền.
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 07.3.2013
Xin
Vui Lòng Ghi Rõ Nguồn VanDanViet Khi
Trích Đăng Lại.
_______________________________________________
Phép
mầu - Truyện ngắn Hoàng
Thảo Chi
Thứ
tư - 20/02/2013 23:14
Một
người đàn ông vô cùng nghèo khổ và bất hạnh, đến ngôi chùa linh thiêng dâng
hương lên bàn thờ Phật. Cắm xong ba nén nhang lên bát hương, ông nức nở trong
nước mắt: - Đức Phật đại từ, đại bi ơi! Con khổ quá!!! Từ trên cao, Đức Phật
nhìn người đàn ông khóc mà lòng ngao ngán. Nhưng cuối cùng Người cũng hỏi: -
Con đã nghe câu: Đời là bể khổ …bao giờ chưa? - Dạ, câu này con đã nghe ngay từ
hồi còn nhỏ. ...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
PHÉP MẦU
Một người đàn ông vô cùng nghèo khổ và bất hạnh, đến ngôi chùa linh thiêng dâng hương lên bàn thờ Phật. Cắm xong ba nén nhang lên bát hương, ông nức nở trong nước mắt:
- Đức Phật đại từ, đại bi
ơi! Con khổ quá!!!
Từ trên cao, Đức Phật nhìn
người đàn ông khóc mà lòng ngao ngán. Nhưng cuối cùng Người cũng hỏi:
- Con đã nghe câu: Đời là
bể khổ …bao giờ chưa?
- Dạ, câu này con đã nghe
ngay từ hồi còn nhỏ.
- Vậy thì có chuyện chi
làm con phải nức nở như vậy? Con bị mất cái gì chăng???
- Dạ, con không có gì để
mà mất. Con nghèo quá, không nhà cửa, việc làm…nên con cũng không có vợ con và
gia đình. Những ngày Tết lễ như thế này, con chỉ muốn chết cho rảnh.
- Con muốn tự tử ư? Đó
cũng là một cách giải thoát. Nhưng cái kết cục ấy không phải là kết quả của một
kiếp luân hồi viên mãn. Không sao, con có toàn quyền quyết định. Chuyện này
ngoài tầm tay của đấng Toàn năng. Nhưng ta muốn hỏi con một câu, con có thể trả
lời ta một cách thẳng thắn không?
- Xin Đức Phật cứ hỏi!
- Con đã thấy con ong, con
kiến nào không việc làm, không nơi ở, đêm ngày kêu than rồi tự tử chưa?
- Dạ con không thấy bao
giờ. Nhưng kiếp ong, kiếp kiến thì tính làm gì! Kiếp Người mới đáng tính chứ!!!
- Đúng, kiếp Người là cao
quý nhất. Vậy con người không thể để thua con ong, cái kiến. Con muốn tự tử, để
quay về với kiếp cầm thú sao?
- Không! Con muốn làm
Người.
- Thì con đang là Người đó
thôi!
- Nhưng kiếp Người như con
thì còn khổ hơn cả con ong cái kiến. Xin Đức Phật cho con một phép mầu để con
được hạnh phúc hơn!!!
- Ta đã cho con rồi còn
gì. Con đã sử dụng nó chưa?
- Con có thấy phép mầu ấy
bao giờ đâu!
- Cái bất hạnh của con là
ở chỗ ấy. Khi ta cho con đầu thai làm kiếp CON NGƯỜI, ta đã yểm một phép mầu
trong chữ Người ấy. Mấy chục năm nay, con chỉ sống trong kiếp Con…chứ chưa sống
trong kiếp Người, nên con mới khổ hạnh đến vậy. Cửa chùa chỉ là nơi cho mọi
người đến, để soi lại xem mình đã sống trong kiếp Người được nhiều ít, chứ
không đáp ứng bất kì lời thỉnh cầu nào. Phép mầu…nằm trong đầu con đó, hãy sử
dụng chúng đi. Đừng vội nhìn lên quá cao, hãy cứ nhìn vào con ong, cái kiến mà
phấn đấu. Năm mới ta chúc con sớm trở lại kiếp Con Người.
- Nam mô a di đà Phật. Con
cảm ơn ĐỨC PHẬT từ bi.
Huế 6/2/2013
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại ngày 15.7.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 19.11.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
________________________________________________
Xin lỗi
cụ Lomonosov
–
Truyện ngắn Hoàng
Thảo Chi (Huế)
Thứ
hai - 19/11/2012 15:30
Hoàng Thảo Chi:-
Ngày mai là ngày lễ 20/11 dành cho các thày cô kính mến của chúng ta. Tôi có
viết được một truyện ngắn nhắc về những kỉ niệm thuở mới sang Matxcova du học.
Như một sự biết ơn về một mái trường, về những người thày đã dạy dỗ tôi trong
đời. ...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
XIN LỖI CỤ LOMONOSOV!
Nhiều năm học tập,
rồi lăn lộn kiếm sống, trên lãnh thổ liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
Viết cũ, và liên bang Nga bây giờ, nếu là nhà văn đích thực, tôi dám cược “một
ăn một trăm” là sẽ viết được cuốn tiểu thuyết cực kỳ vĩ đại, đủ sức hủy diệt
bất kì đối thủ nào, dám cạnh tranh với tôi giải Nobel danh giá giành cho văn
học.
Nhưng chỉ là kẻ viết lách
nghiệp dư, nên tôi quyết định nhường cơ hội ấy cho các nhà văn lớn. Kẻo mọi
người lại đàm tiếu là: Qụa muốn thành… Công!!! Hoặc cái gì đó tương tự. Mà tôi
thì không thích, những lời lẽ ít tính nhân văn ấy lắm. Nên âm thầm rút lui,
tuyệt nhiên không hé răng nói với bất kỳ ai, về cái ý định tranh giải Nobel văn
học của mình. Tuy thế, tôi vẫn nhớ và muốn viết về nước Nga đến cồn cào cả lòng
dạ. Bởi nước Nga có rất nhiều thứ để nhớ. Mùa thu vàng chẳng hạn. Ai mà không
biết đến kiệt tác “Mùa thu vàng” trứ danh của danh họa Levintan kia chứ. Nhưng
với tư cách là người đã đi qua rất nhiều mùa thu vàng của nước Nga, tôi xin nói
nhỏ với mọi người rằng: Cụ Levintan mới chỉ mô tả được một cái lá vàng, trong
cái biển vàng chói lòa vời vợi, của mùa thu nước Nga mà thôi. Trời ơi! Mùa thu
vàng nước Nga, làm sao mà ngợi ca bằng màu sắc, âm nhạc, thơ ca…hay bằng cái dỉ
cái di, cái gì đi nữa… thì cũng đành bó tay.com mà thôi!!! (Nói vậy, chứ tôi cứ
phải xin lỗi cụ Levintan, vì tôi vốn không biết chi về hội họa, mà lại yêu mùa
thu nước Nga quá, nên cứ nói đại thế, mong cụ đại xá cho). Hay như nhà thơ Tố
Hữu đã trầm ngâm xác nhận: Đẹp như người con gái nước Nga… Tôi và tất cả
mọi người đã sống, hoặc đã đến nước Nga, dẫu chỉ một lần, đều một trăm phần
trăm đồng ý với nhà thơ về nhận định này. Không biết các nàng tiên trên thượng
giới đẹp thế nào? Nhưng các cô gái Nga tóc vàng mắt xanh thì đúng là những kiệt
tác tuyệt mỹ nhất, mà chỉ có Thượng đế mới tạo ra được. Nhưng tất cả những thứ
đó đều lùi rất xa, mỗi khi tôi nhớ về những kỉ niệm ngọt ngào, trong những ngày
đầu mới đến Matxcơva, và một kỉ niệm đặc biệt là được phong hàm “Giáo sư” đến
hai lần trong một ngày…mà lòng tôi dâng đầy thương nhớ!
Thượng tuần tháng 8 năm
1981, tôi có mặt và trở thành sinh viên tại khoa dự bị tiếng Nga của
trường đại học tổng hợp quốc gia Matxcơva. Một hai tuần đầu, tôi luôn
sống trong trạng thái của một kẻ mộng du, hạnh phúc tràn đầy. Trường đại học
tổng hợp mang tên nhà bác học vĩ đại người Nga - Lomonosov đối với tôi quả là
một thiên đường tri thức thực sự. Tôi chưa được đến các trường đại học danh
tiếng khác trên thế giới như: Harvard, Sorbonne, Oxford…nhưng lúc đó tôi đã
nghĩ: Chỉ là cái đinh rỉ so với MGU (Tên viết tắt của trường tổng hợp
Matxcơva)…thôi. Bây giờ nghĩ lại thấy buồn cười vì sự so sánh đó. Nhưng lúc ấy,
nếu là các quý vị, thì các quý vị cũng nghĩ như tôi mà thôi. Hôm cô giáo phụ
trách lớp, dẫn chúng tôi đi thăm trường, đi dưới sân của tòa giảng đường chính,
có ngọn tháp cao đến mấy trăm mét, thỉnh thoảng tôi cứ cấu vào mũi mình xem
mình có đang mơ không??? (Bây giờ trên mũi tôi vẫn còn mâý vết sẹo mờ mờ của
những cú cấu ấy!!!). Đêm đầu tiên nằm ngủ trong căn phòng thơm mùi sơn mới,
trên tầng 12 của ký túc xá sinh viên 16 tầng cao vút. Tôi tuyệt nhiên
không buồn ngủ chút nào. Tôi chỉ quen nằm trên giường vạt tre, hoặc gỗ. Bây giờ
nằm trên giường lò xo, có đệm mút êm, cứ có cảm giác bồng bênh, như đang từ từ
lún xuống sình lầy vậy. Thấy ghê ghê. Trăn trở mãi không ngủ được, tôi quyết
định phải đi tắm một cái. Lại cũng lần đầu tiên nằm trong bồn tắm nước nóng,
với một núi bọt xà phòng vừa thơm, vừa hăng hắc. Tôi miên man nghĩ về quá khứ.
Không hiểu sao lúc ấy tôi lại “Bất hiếu“ đến thế không biết? Bởi những hình ảnh
tôi nhớ đến trước tiên, không phải là thầy u tôi, mà lại là con trâu sứt mũi
của hợp tác xã, giao cho nhà tôi nuôi. Tôi thấy mình đang cưỡi nó bơi qua đầm
sen cạnh quốc lộ 21, con đường có cả đường bộ lẫn đường sắt song hành chạy gần
sát qua làng tôi. Giữa mùa hạ, xung quanh hồ, sen đang vào mùa trổ bông, rực rỡ
sắc hồng, sắc trắng, ngào ngạt hương thơm mê mẩn. Đoàn tàu khách bất ngờ chạy
qua, u u kéo còi và xả ra những đám hơi nước rú rít mù mịt, đinh tai nhức óc.
Con trâu sứt hoảng sợ ngụp vội xuống, khiến tôi nổi lềnh bềnh trên mặt nước.
(Tôi sinh ra ở vùng đồng chiêm trũng, biết bơi khi còn trong bụng mẹ, có thể
nằm nổi trên mặt nước bao nhiêu tùy thích. Cái này chính tôi cũng thấy lạ!!!).
Trâu sứt ơi, cái bồn tắm này mày không thể tắm được đâu, tao còn không thấy hợp
nữa là mày! (Tắm ở hồ quê mình, bơi lội tự do vẫn sướng hơn chứ! Phải không!)
Nhưng thông cảm nghe! Nhập gia phải tùy tục mà. Tôi thấy rõ ràng cái mũi ươn
ướt của nó cọ cọ, ngửi ngửi nơi tay tôi nhồn nhột ra vẻ thông cảm. Nó đã, và sẽ
còn mãi mãi, cõng tuổi thơ của tôi trên lưng. Tôi như ngửi thấy mùi khen khét,
mùi của da trâu, mùi của thuốc súng từ da thịt tôi tỏa ra. Ừ, mùi vị quá khứ
của tôi đó, của đất Việt bao đời đạn bom chiến tranh, lầm than lam lũ của tôi
đó. Tôi hít hà da thịt mình, hít hà mùi vị quê hương mà thương nhớ đến vô cùng.
Lan man về quá khứ một lúc, tôi rời buồng tắm, quay về với tấm đệm bồng bênh,
về với hiện tại của mình. Lúc đó tôi đã vô cùng hài lòng về bản thân. Tôi đã
thực hiện được ước mơ cháy bỏng là vào đại học, mà lại được học đại học ở nước
ngoài nữa. Chúa ơi! Tôi phục tôi quá đi mất!!! Lúc ấy đầu tôi bỗng trống không!
Tôi đã không thể nào giải thích được điều đó. Mấy năm sau, một hôm xem truyền
hình, về lễ trao giải Oscar của điện ảnh Mỹ, tôi mới lí giải được hiện tượng
ấy: Một diễn viên nữ tuy chỉ đóng vai phụ trong một bộ phim, nhưng vì diễn xuất
cực kỳ hay, cô đã được trao giải Oscar danh giá cho nữ diễn viên đóng vai phụ
xuất sắc nhất. Khi bước lên sân khấu nhận tượng Oscar, cô òa khóc. Người dẫn
chương trình phỏng vấn: Chị đang nghĩ gì vậy? Chị có thể nói đôi lời không? Cô
ấy giơ tượng Oscar lên cao nói: Đầu tôi đang trống không đây, nói gì được kia
chứ…à…à… mà có. Tôi rất hạnh phúc. Cảm ơn! Cảm ơn!!! Chắc là tôi cũng đã rơi
vào trạng thái ấy, dẫu tôi không được giải Oscar. Nhưng được trở thành sinh
viên của MGU (dẫu chỉ là sinh viên học tiếng Nga một năm), đối với tôi, một kẻ
”chân đất mắt toét” là một điều không ngờ tới. Đó là một hạnh phúc lớn lao. Tôi
biết rằng, có được cái hạnh phúc ngọt ngào đó, ngoài sự nỗ lực đến kiệt sức của
bản thân, còn vô vàn những điều khác nữa đã nâng cánh cho tôi. Tự thẳm sâu
trong trái tim, tôi đã nói ngàn lần lời cảm ơn vì tất cả. Có lẽ tôi đã thiếp đi
trong lúc nói những lời cảm ơn đó.
Sáng hôm sau khi tỉnh dậy,
mặt trời đã lên cao, đang chiếu những tia nắng rực rỡ vào phòng tôi qua những ô
kính lớn trên của sổ. Lệch múi giờ, tôi không thể đoán được lúc ấy vào khoảng
mấy giờ sáng. Tôi bước đến bên của sổ, một phần của Matxcơva như một bức tranh
tuyệt đẹp hiện ra phía ngoài kia. Vô số những tòa nhà 15 đến 20 tầng chạy dài
tít tắp hai bên những đại lộ thênh thang. Những dòng xe ô tô nối nhau miên man
không dứt. Tôi cố tìm kiếm bóng dáng cái xe đạp thân thuộc của xứ xở mình,
nhưng đành bất lực. Rất nhiều những công viên cây xanh rải rác đây đó, như
những điểm nhấn làm dịu mát không gian đô thị hiện đại. Những hàng bạch dương
rì rào trong gió, đã thấp thoáng những cánh lá vàng, tín hiệu báo cho đất trời
chuẩn bị chuyển sang mùa thu vàng huyền thoại. Khung cảnh ấy chợt gọi những
hình ảnh Hà Nội về trong tôi. Tôi nhớ đến khu tập thể Giảng Võ với những dãy
nhà năm tầng uy nghi, nơi có căn hộ ba buồng của một vị thứ trưởng, mà tôi chơi
rất thân với cậu con trai của ông ấy. Mỗi lần đến chơi, nó lại luộc mấy cái xúc
xích Nga chiêu đãi tôi. Hắn nói là mới mua ở cửa hàng Vân Hồ đấy. Tôi hỏi: Cửa
hàng Vân Hồ ở đâu? Sao lại mua được xúc xích ở đó? Hắn nhìn tôi với ánh mắt vô
cùng độ lượng, không chấp trách mà rằng: Là nơi bán hàng thực phẩm chỉ dành cho
cán bộ cao cấp…như bố tớ chẳng hạn!!! Tôi hiểu ngay và buồn rầu nghĩ bụng: Thế
kia đấy. Mình làm sao biết được cái cửa hàng Vân Hồ ấy ở đâu kia chứ!!! Mùi xúc
xích luộc thơm nức trong trí tưởng, làm bụng tôi réo lên ùng ục. Lúc ấy mới
biết mình đang đói. Chiều qua, lúc đi ngang nhà ăn ở tầng một của ký túc xá,
tôi thấy xúc xích đầy trong tủ kính. Tôi khoan khoái nghĩ: Bây giờ không cần vô
cửa hàng Vân Hồ cao cấp cũng mua được xúc xích thoải mái… Nhưng tôi lại không
thèm xúc xích. Tôi muốn được ăn cả một con gà luộc cho đã. Lúc ấy tôi đã buồn
cười về cái thèm khát vụn vặt, trần tục của mình. Chợt nhớ mấy câu thơ của Chế
Lan Viên: Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp. Giấc mơ con đè nát cuộc
đời con… Không sao, một con gà luộc không đè nát được cuộc đời của mình
đâu mà sợ!!! Tôi an ủi mình như vậy và quyết định vào rủ thằng Q, bạn tôi ở
phòng bên đi mua gà. Thằng Q dân xứ Nghệ. Chúng tôi đã học cùng nhau một năm ở
khoa lưu học sinh tiếng Nga, tại trường đại học ngoại ngữ Thanh Xuân, Hà Nội.
Nó đã đi lính, đánh giặc ở chiến trường Quảng Trị. Miền Nam giải phóng xong mới
trở về thi đai học như tôi. Hôm sang Nga, bay được mấy tiếng, nó lên cơn sốt
rét đùng đùng, mấy cô tiếp viên hàng không Nga được một phen sợ vỡ mật. Nó có
nước da tím tái, xám xịt toàn phần. Chúng tôi trêu nó là: Nước da tươi màu sốt
rét. Khi tôi bước vô phòng, thấy Q đang đứng cạnh cửa sổ nhìn ra ngoài như bị
thôi miên. Chắc nó đang làm thơ! (Thằng Q làm thơ rất hay, chí ít là với tôi).
“Thế nào thi nhân! Đầy thi hứng phải không?”- Tôi hỏi nó.- “Ừ. Tim thì
đầy cảm xúc, nhưng bụng thì sôi ù ù đây. Đói bỏ mẹ.”- Nó nhăn nhó trả lời.
“Muốn ăn gì?”- Tôi dọ hỏi. Nó mím môi một cái rồi trả lời rất dứt khoát (Chắc
nó đã nung nấu về điều này từ lâu lắm rồi): “Gà luộc mày ạ. Phải ăn cả một con
mới sướng!!!” Giời đất ơi! Khốn nạn thân nó! Khốn nạn thân tôi thế không biết!
Nghèo khổ giống nhau, nên thèm ăn cũng giống nhau nốt! Trái tim tôi nhói đau,
nhưng miệng lại phì cười vì cái sự trùng hợp ấy. Nó đoán được tôi đang nghĩ gì
nên hỏi: “Mày cũng nghĩ vậy à?” Tôi gật đầu xác nhận.
Cửa hàng thực phẩm chỉ
cách ký túc xá của chúng tôi vài trăm mét. Thằng Q ủy quyền cho tôi đi mua hai
con gà, để tối nay luộc lên “ăn cả một con mới sướng”. Thằng Q nhắc đi, nhắc
lại với cái giọng đầy khao khát! Cách bài trí trong cửa hàng thực phẩm hoàn
toàn ấn tượng đối với tôi. Những dãy tủ kính có máy lạnh đựng các loại thịt,
xếp hàng thẳng tắp, đèn neon sáng trưng. (Cái này không giống ở Hà Nội lắm. Hà
nội nhà mình thịt cứ bày trên sạp gỗ, tha hồ chọn, thuận lợi vô cùng. Ruồi
nhặng cũng kiếm được chút đỉnh. Tủ lạnh làm chi cho rách việc). Tôi thầm so
sánh rồi rồi đứng xếp hàng sau một phụ nữ. Ở đâu cũng xếp hàng, nhưng ở đây
khác hơn thì phải. Dòng người xếp hàng mua thực phẩm hầu hết là những người đã
có tuổi. Chắc họ đã về hưu cả. Mỗi người trên tay hoặc một cuốn sách, hoặc một
tờ báo chăm chú đọc. Không ai cầm tem phiếu, và đặc biệt là không thấy một viên
gạch, hoặc một cục đá nào xếp hàng như ở Hà nội. Cái này đúng là thua ta xa! Xứ
mình một cục đá, một viên gạch cũng có thể xếp hàng, và cũng được tôn trọng,
tuyệt nhiên không có chuyện phân biệt đối xử! Dòng suy nghĩ miên man của tôi
bỗng bị chặn đứng bởi câu hỏi:
- Anh bạn trẻ! Có ai đứng
sau cậu không? Tôi đứng được chứ? Một người đàn ông khoảng 60 tuổi cao to,
gương mặt phúc hậu nhìn tôi với ánh mắt nồng ấm.
- Vâng! Không có ai cả.
Xin mời ông! Tôi trả lời.
- Ồ! Cậu nói được tiếng
Nga à? Cậu từ đâu đến vậy?- Người đàn ông sởi lởi bắt chuyện với tôi.
- Tôi là sinh viên Việt
Nam.
- Ôi! Đồng hương của Đặng
Thái Sơn. Cậu có biết Đặng Thái Sơn không?
- Anh ấy là sinh viên của
nhạc viện Tchaikovsky, đã đoạt giải nhất cuộc thi piano quốc tế về nhạc
Chopin…tôi chỉ biết vậy. Tôi chưa được gặp anh ấy bao giờ.
- Cậu ấy là một tài năng
lớn. Chúng tôi mới chỉ biết người Việt Nam các cậu mặc áo lính, còn người Việt
Nam mặc áo đuôi tôm chơi piano trên sân khấu thế giới, thì đây là lần đầu.
Người Nga chúng tôi cũng thơm lây từ cậu ấy. Thế cậu học trường nào vậy?
Người đàn ông hỏi và chăm
chú đợi câu trả lời của tôi. Một niềm tự hào ngọt ngào dâng đầy trong tôi. Tôi
mới thực sự là kẻ được hưởng lợi đây! Đặng Thái Sơn thân yêu ơi, cảm ơn cậu
nghe!
- Tôi học tại khoa dự bị
tiếng Nga trường MGU.- Tôi bình thản trả lời.
- MGU? Người đàn ông giật
giọng hỏi lại, âm điệu nghe chừng không mấy tin tưởng.
Ông ấy không tin cũng
phải. Tôi còn không tin nữa là. Tôi móc túi lấy thẻ sinh viên MGU đưa cho ông.
Ông trân trân nhìn tấm thẻ, đầu lúc thì lắc lắc, lúc thì gật gật… tôi không
hiểu ông ấy đang nghĩ gì!
- Cậu biết không! Tấm thẻ
này mãi mãi là ước mơ cháy bỏng của tôi, của mọi thế hệ tuổi trẻ nước Nga và cả
liên bang Xô Viết nữa.
Giọng ông trùng xuống, đầy
nuối tiếc.
- Cậu tuyệt lắm! Chúc mừng
Giáo sư tương lai! Đi theo tôi lên đây.
Người đàn ông bứt mình
khỏi những kỉ niệm xa xưa, ông chúc mừng tôi với một ngữ điệu hồ hới, như cái
cách mừng vui của một người cha với người con vậy. Ông kéo tôi ngược đoàn người
đang xếp hàng, đến tận chỗ cô gái đang bán hàng.
- Bà có thể cho phép vị
giáo sư tương lai của Việt Nam này mua trước được không? Ông nói với người phụ
nữ đứng đầu hàng.
- Là sinh viên MGU đấy,
cậu ấy bây giờ cần rất nhiều thời gian để học.
Ông đưa tấm thẻ sinh viên
của tôi cho người phụ nữ xem. Bà đọc xong, quay ra nhìn tôi với con mắt ngợi
khen.
- Cậu bé! Giỏi lắm! Khi
nào cần mua gì ở đây, cậu không cần xếp hàng đâu. Hãy đến nói với cô bán hàng…
Cậu là một ngoại lệ. Có phải không Lê na?
Lê na là cô gái bán hàng.
Lê na nhìn tôi mỉm cười nói:
- Ồ! Tất nhiên rồi. Nhưng
cậu nhất định là phải trở thành giáo sư nghe không!
- Vâng! Nhất định là như
vậy. Tôi mỉm cười hứa.
Tôi cảm ơn tất cả mọi
người rồi bước ra khỏi cửa hàng. Tôi thấy Matxcơva đang gần hơn trong tôi, thấy
nước Nga đang cụ thể hơn, nồng ấm hơn trong trái tim mình.
Lúc về tới ký túc xá, đồng
hồ trên tường tiền sảnh chỉ 9 giờ sáng. Tôi nhìn chiếc đồng hồ nhựa trên tay đã
chỉ 12 giờ trưa. Đây là giờ Việt Nam của tôi. Một chút luyến tiếc, tôi quyết
định bấm lại đồng hồ theo giờ Matxcơva. Tạm biệt Việt Nam. Bây giờ tôi phải
theo giờ của Matxcơva cái đã! Giao hai con gà cho thằng Q xử lý, tôi quyết định
một mình tới trường để thực hiện một phi vụ bí mật: Đi tìm kho báu, mà một ông
thày trẻ đã du học tại MGU về dạy tiếng Nga cho chúng tôi ở trường đại học
ngoại ngữ Thanh Xuân, Hà Nội đã tiết lộ. Với tấm sơ đồ chỉ dẫn sơ sài trong
tay, tôi lang thang trong rừng táo bạt ngàn trên đồi Chim Sẻ thuộc khuôn viên
của trường. Sau mấy tiếng đồng hồ đi miên man theo bản chỉ dẫn, cuối cùng tôi
cũng tìm được kho báu của ông thầy tôi để lại. Đó là một thung lũng nhỏ, có
những cây táo quả màu đỏ ngon nhất rừng táo MGU. Gần cuối tháng tám, những cây
táo trĩu cành đã có rất nhiều quả căng mọng. Không cần leo lên cây, tôi tới một
cành la thấp ngang tầm, vít xuống hái một quả đỏ ău màu hổ phách mọng căng thơm
lựng. Không kìm được sự thèm khát, tôi lau vội quả táo vào tay áo mấy cái lấy
lệ, rồi cắn một miếng rõ to. Không biết thuở hồng hoang, ông bà Ađam và Êva
nghe con rắn xúi dại, đã nếm thử trái cấm trong vườn Địa Đàng ngon đến mức nào?
Nhưng chắc chắn không thể ngon hơn trái táo của tôi lúc đó. Bằng chứng là đến
tận bây giờ, sau hơn 30 năm, khi đang viết những dòng này, tôi vẫn thấy vị táo
ngọt lịm,giòn tan nơi đầu lưỡi, hương của nó tôi vẫn ngửi thấy thơm nức trong
cánh mũi,ngất ngây. Đó là quả táo ngon nhất, mãi mãi đi theo tôi đến tận bây
giờ.
Nhìn đồng hồ thấy đã gần
12 giờ, tôi quyết định vào nhà ăn của trường để ăn trưa. Theo các mũi tên chỉ
dẫn, loanh quanh một hồi tôi cũng tới được nhà ăn. Khi tôi bước vào, nhiều điều
làm tôi bối rối. Một không gian thênh thang, có sức chứa hàng ngàn sinh viên.
Nhà ăn đã đông nghịt người. Có điều là tịnh không nghe thấy một tiếng nói
chuyện, không một tiếng động nào do cái miệng khi ăn phát ra. Chỉ nghe tiếng
thìa nĩa chạm vào đĩa sứ lanh canh. Điều này chúng tôi đã được dạy rất kỹ,
nhưng bây giờ cần phải áp dụng vào thực tế. Tôi đã quen ăn uống vô tư, nhai
nhồm nhoàm, húp soàn soạt, sùm sụp tự do như không khí!!! Không sao, cứ lấy đồ
ăn rồi tính. Tôi tự trấn an mình vậy, rồi đi đến quầy thức ăn tự chọn. Đứng
trong dòng sinh viên xếp hàng, tôi quan sát cái cách họ lấy thức ăn, cái cách
họ trả tiền để đến lần mình khỏi bỡ ngỡ. Cuối cùng tôi cũng lấy được một đĩa
xúp, một đĩa khoai tây nghiền có hai cái xúc xích chiên vàng thơm nức, một cốc
nước táo và hai lát bánh mỳ đen. Bà thu ngân nói là tôi phải trả 50 xu. Bê khay
đồ ăn ra khỏi quầy, tôi thở phào nhẹ nhõm, biết mình đã qua một đợt sát hạch
nho nhỏ. Tôi đứng ngây người quan sát, tìm một chỗ trống để ngồi. Mắt tôi lướt
qua mấy dãy bàn gần nhất, tất cả đều chật kín. Khi tôi đang thất vọng miên man,
thì mắt tôi bắt gặp một dãy bàn khoảng ba bốn cái xếp liền nhau, có phủ khăn
bàn trắng tinh, kê sát tường, bên những ô của sổ nhìn ra vườn cây, tuyệt nhiên
không một ai ngồi. Tôi rảo bước tới đầu dãy bàn, đặt khay thức ăn xuống. Thật
may quá! Tôi hân hoan nghĩ bụng. Nhìn hai cái xúc xích chiên vàng nóng hổi thơm
lừng, nhớ đến những cái xúc xích mà thằng bạn ở Giảng Võ vẫn chiêu đãi, tôi
chạnh lòng nghĩ: Không biết xúc xích cao cấp Vân Hồ có thơm như thế này không?
Chào Giáo sư trẻ! Chúc
ngài ngon miệng!
Khi tôi vừa cầm cái nĩa
định xiên cái xúc xích, thì tiếng chào của một phụ nữ ngân lên trước mặt tôi.
Trời ơi: ”Trời đánh còn tránh bữa ăn mà”… Sao lại chào hỏi vào lúc này, mà còn
gọi mình là “Giáo sư” nữa kia chứ… Tôi vội đứng lên cùng một chút bực bội trong
lòng.
- Cảm ơn bà. Tôi chỉ là
một sinh viên mới.
- Tôi đùa chút thôi. Chỉ
có các sinh viên mới như các cậu, mới đến ngồi ở đây!
Người phụ nữ nở một nụ
cười thông cảm, và đi tới cuối dãy bàn nơi có đặt một tấm biển nhỏ hình chữ
nhật, mà tôi đã không để ý tới.
- Đây là bàn dành cho sinh
viên mới phải không? Thưa bà?
- Ồ! Không hẳn thế. Cậu
đọc được chứ?
Bà giơ tấm biển màu xanh
có một hàng chữ màu trắng: BÀN DÀNH CHO CÁC GIÁO SƯ…cho tôi xem. Đọc xong dòng
chữ, tôi giật nảy mình vì biết mình đã ngồi nhầm chỗ.
- Xin lỗi bà! Lúc nãy tôi
đã không để ý…
- Không sao! Năm mới nào
cũng có một vài chuyện như vậy. Một kỉ niệm rất thú vị phải không? Hôm nay cậu
được ngồi đây 20 phút. Còn muốn tự do ngồi ở đây, cậu còn phải mất mươi, mười
lăm năm nữa… Khi cậu đã trở thành một giáo sư. Cậu có biết ai đây không?
Người phụ nữ chỉ tay lên
tường, lúc này tôi mới nhìn thấy một khung ảnh to lồng ảnh nhà bác học
Lomonocov, đang ngồi bên bàn viết với cây bút lông ngỗng trên tay. Mặt ông
ngước lên, như đang mải miết đuổi theo những ý tưởng đang xuất hiện liên miên
trong đầu.
- Đó là Lomonocov.
- Cậu giỏi lắm. Có thể
ngày xưa, ông ấy đã ngồi trên cái ghế cậu đang ngồi đấy. Thôi chào Giáo sư trẻ
nhé. Hẹn gặp lại cậu. Tôi là Ôlia phụ trách nhà ăn ở đây.
- Cảm ơn bà Ôlia. Hẹn gặp
lại.
Bà Ôlia lại mỉm cười với
tôi rồi đi khỏi. Tôi cúi đầu chào bà, mà lòng xáo động bao suy nghĩ. Ngày hôm
nay thật kỳ lạ, tôi đã được “phong Giáo sư” đến hai lần. Tôi lại còn ngồi nhầm
vào cái ghế mà có thể trước đây nhà bác học vĩ đại Lomonocov đã ngồi (như bà
Ôlia đã nói). Tôi ngước nhìn lên ảnh cụ Lomonocov, trong thoáng chốc tôi như
thấy cụ mỉm cười, nháy mắt với tôi. Hình như cụ còn biết cả chuyện tôi vừa đi
ăn trộm táo nữa. Nhưng đôi mắt cụ tràn ngập yêu thương. Tôi chắp tay trang
nghiêm, miệng lầm rầm khấn vái:
- Cháu xin lỗi cụ
Lomonocov. Cháu sẽ cố gắng học, để được ngồi ăn dưới ảnh chân dung của cụ.
Huế 18/11/2012
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại ngày 15.7.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 19.11.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
________________________________________________
Hát
Quốc ca - Truyện ngắn Hoàng Thảo Chi (Huế).
Thứ
hai - 29/10/2012 17:41
Chiều
nay, khi tan sở về đến nhà, tôi đang lúi húi thay quần áo, thì chợt nghe thấy
tiếng mấy bé gái hát Quốc ca vọng lên. Tôi tò mò ra ban công nhìn xuống. Dưới
sân, bốn năm bé gái trạc chín mười tuổi ngồi quây thành một vòng tròn đồng
thanh hát Quốc ca. Chắc hôm nay ở lớp, cô giáo dạy hát Quốc ca, nên chúng đang
tập lại. Tôi tự giải thích cho mình vậy, và tiếp tục lắng nghe chúng hát. ...
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
HÁT QUỐC CA
Chiều nay, khi tan sở về
đến nhà, tôi đang lúi húi thay quần áo, thì chợt nghe thấy tiếng mấy bé gái hát
Quốc ca vọng lên. Tôi tò mò ra ban công nhìn xuống. Dưới sân, bốn năm bé gái
trạc chín mười tuổi ngồi quây thành một vòng tròn đồng thanh hát Quốc ca. Chắc
hôm nay ở lớp, cô giáo dạy hát Quốc ca, nên chúng đang tập lại. Tôi tự giải
thích cho mình vậy, và tiếp tục lắng nghe chúng hát.
Mấy câu đầu chúng hát
được, đúng nhạc, đúng lời, cao độ, trường độ đều khá chuẩn. Nhưng đến câu tiếp
theo thì bắt đầu có vấn đề. Nguyên văn câu ấy như thế này: Súng ngoài xa chen
khúc quân hành ca. Nhưng có đứa hát là: Súng tầm xa… có đứa hát là: Súng hỏa
xa… có đứa hát đúng: Súng ngoài xa…Nói chung là cứ loạn cả lên. Tôi thấy buồn
cười quá liền vươn cổ ra ngoài ban công gào lên: ”Này mấy đứa, hát là: Súng
ngoài xa…mới đúng! Làm gì có tầm xa với lại hỏa xa hả !!!” Mấy cô bé giật nảy
mình, im bặt ngửa cổ ngó lên chỗ tôi đứng. Sau khi định thần, hiểu điều tôi
muốn nói, chúng quay lại cấu nhau, cố nén để không bật cười thành tiếng. Đứa
hát đúng cất giọng: ”Thấy chưa, bác ấy bảo là: Súng ngoài xa…mới đúng, bọn mi
toàn hát bậy!” Mấy đứa hát sai hình như vẫn chưa tin lắm, chúng thì thào cái gì
đó tôi không nghe rõ. Con bé lúc nãy tức quá đứng phắt dậy nói: ”Được rồi, để
tau chạy về lấy vở, đứa mô lúc nãy hát sai tao búng vỡ mũi…” Chu cha, căng
thẳng ra phết. Nhưng có vở ghi bài hát là được rồi. Chắc chúng sẽ không còn cãi
nhau như lúc nãy. Tôi yên tâm quay vào trong nhà, không chú ý đến mấy cô bé
nữa. Nhưng bỗng nhiên, một kỉ niệm độc nhất vô nhị về lần hát Quốc ca năm nào
lại thức dậy trong tôi, sống động tới tận những chi tiết nhỏ nhất. Tôi không
thể làm được bất kì chuyện gì khác, ngoài việc cầm bút chép lại câu chuyện ấy,
mong kể hầu các quý vị thư dãn trong giây lát.
…Cách đây khá lâu, vì có
việc cần giải quyết tại thành phố Hồ Chí Minh, buổi sớm tôi ra ga xe lửa thành
phố mua vé tàu Thống nhất rồi ngồi đợi. Gần đến giờ khởi hành, thì nghe loa
thông báo là đoàn tàu của tôi sẽ chậm lại khoảng hơn một tiếng vì sự cố gì đó.
Chán nản, tôi đi kiếm một ly cà phê và một tờ báo An ninh thế giới, rồi vô
trong phòng chờ ngồi đọc, giết thời gian. Mới lướt qua mấy cái tít của báo thì
tôi nghe tiếng mưa rơi rào rào. Ngoài sân ga, cánh đàn ông làm nghề xe ôm, vội
vàng khóa xe, chạy tán loạn vào nhà ga đứng tránh mưa. Mấy bà có tuổi buôn
thúng bán mẹt cũng chạy nháo nhào như ma đuổi… Đã là cuối hạ, miền Trung bước
vào mùa mưa bão. Cái mùa cơ cực, đói khổ nhất trong năm bắt đầu rồi đây. Tôi buồn
rầu nghĩ bụng, rồi quay về với tờ báo của mình.
- Tất cả đứng dậy. Chuẩn
bị làm lễ chào cờ.
Một giọng đàn ông trầm, vô
cùng rắn rỏi và đầy uy lực đột ngột vang lên, át mọi tiếng ồn, át cả tiếng mưa
rơi.
Như một phản xạ cố hữu,
tôi gập tờ báo rồi đứng lên thật nhanh, tuy chẳng hiểu cái gì. Mọi người quanh
tôi cũng hết thảy đứng lên. Cánh xe ôm ngoài hành lang cũng đứng nghiêm quay
mặt vào. Tôi nhìn lên phía trước, dưới tấm pa nô thông báo giờ tàu, một người
đàn ông đứng tuổi, vóc dáng cao lớn, với gương mặt vuông chữ điền đen trũi, cái
miệng rộng mím chặt, ánh mắt bốc lửa dữ dội đang đứng nghiêm. Ông ta mặc một bộ
quân phục đã bạc phếch, bên ngoài khoác một cái áo mưa tiện dụng màu sáng, chân
đi đất. Vai ông ta đeo một một cái gậy tre dài khoảng hơn một mét, theo cái
kiểu những người lính đeo súng trường khi hành quân. Chuyện gì đang xảy ra vậy?
Tôi liếc phải, liếc trái định hỏi những người bên cạnh. Nhưng khi nhìn vào nét
mặt mọi người, tôi biết là phải đội chữ nhẫn lên đầu trong lúc này…Khi tôi đang
vô cùng bối rối thì người đàn ông hô cực to như thét:
- Nghiêm! Chào cờ … chào!
Quốc ca!
“Đoàn quân Việt Nam đi
Chung lòng cứu quốc
Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa…”
Đầu tiên chỉ có một mình người
đàn ông hát. Nhưng sau đó mọi người dần dần hát theo.
Tôi cũng hòa cùng mọi
người. Không khí thật trang nghiêm, đầy phấn khích. Đây là lần chào cờ kì lạ
nhất, xúc động nhất mà tôi tham dự trên cõi đời này. Không quốc kỳ, không có
bất kỳ một nghi lễ gì, không vì bất kì lí do chi. Chỉ giản dị là chào cờ, hát
quốc ca do một người tôi chưa biết là ai điều khiển. Nhưng tất cả mọi người đều
trang nghiêm và hát say sưa với tất cả niềm tự hào thẳm sâu trong tâm hồn mình
với bản Quốc ca của dân tộc. Nhưng bắt đầu vào đoạn hai, sau câu: “Đoàn quân
Việt Nam đi. Sao vàng phấp phới…” Thì tôi thấy các giọng hát bỗng tắt đi hơn
một nửa. Trong đó có cả tôi. Âý là vì mọi người không thuộc lời. Hình như người
đàn ông đã biết chuyện sẽ như thế, nên ông ta đột ngột cất cao tiếng hát, cứ
ngỡ như giọng của ông được phóng đại qua cái loa điện vậy. Tiện có tờ báo trong
tay, tôi vội rút cây bút trên túi ngực ghi tốc ký lại lời hai của bài Quốc ca:
“Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than. Cùng chung sức phấn đấu xây đời mới.
Đứng đều lên gông xích ta đập tan. Từ bao lâu ta nuốt căm hờn. Quyết hy sinh
đời ta tươi thắm hơn…” May quá, thế là tôi có được lời của bài Quốc ca, đoạn mà
tôi chưa thuộc. Dạo ấy chưa có internet nên cụ Tổ sư bồ đề “Google” chưa đến
Việt Nam, muốn tra cứu cái gì cũng đành chịu. Nhất là cánh lao động chân tay
như bọn tôi.
- Toàn đơn vị nghỉ. Giải
tán. Xin cảm ơn.
Giọng người đàn ông cắt
đứt dòng suy nghĩ của tôi. Lễ chào cờ đặc biệt đã kết thúc. Tôi nhìn lên, người
đàn ông điều hành lễ chào cờ vẫn còn đứng đó. Nhưng trong phút chốc ông đã hóa
thân thành một người hoàn toàn khác. Gương mặt dữ dội, với những ánh nhìn bốc
lửa đã biến đâu mất. Cái miệng rộng mím chặt khi nãy được thay bằng một nụ cười
như trẻ thơ, đôi mắt thì vời vợi xa xăm như kẻ mộng du…cả gương mặt ông giãn
ra, hiền lành như mặt của chú Tễu. Một cô gái với trang phục ngành đường sắt
(chắc là cô nhân viên bán vé của nhà ga) mang ra cho ông một ly cà phê đen, một
cái bánh mỳ gói trong tờ giấy ăn. Tôi thấy ông nhận và cúi đầu chào rất lịch
sự, miệng nói: Cảm ơn, rồi đi ra ngoài sân ga, vừa đi vừa nói: Cảm ơn…cảm
ơn…cảm ơn!!!
Đoán là cô gái này biết
rất rõ về người đàn ông kỳ lạ đó, tôi vội vàng chạy đến bên cô với vô số những
câu hỏi nhằm thỏa mãn sự tò mò của mình. Cô gái nhìn tôi mỉm cười vẻ thông cảm
hỏi: ”Bác mới chào cờ ở đây lần đầu à?” Tôi gật đầu bảo: ”Phải. Thế ở đây ngày
nào cũng chào cờ kiểu này à? Mà ông ấy là ai vậy? Sao mọi người lại chấp hành
mệnh lệnh của ông ấy trang nghiêm như thế???”
- Khiếp, bác phỏng vấn
liền tù tì như vậy thì cả ga nhà em cũng không trả lời hết, chứ mình em sao
xuể…
Tôi và cô nhân viên nhìn
nhau cười một thôi, rồi cô từ từ giải thích: “Bác ấy tên là Hùng, nhà đối
diện với ga, sỹ quan trong quân đội đã giải ngũ, cấp gì em không rõ. Bác ấy bị
thương dạo đánh nhau ở cửa ngõ Sài Gòn năm bảy lăm. Trong đầu bác ấy vẫn còn
găm một một mảnh đạn, nhưng các bác sỹ bảo không lấy ra được. Cứ trở trời là
bác ấy lại như thế. Hôm đầu tiên, bác ấy xuất hiện, tất cả hành khách và nhân
viên nhà ga sợ phát khiếp. Bác ấy cầm cái gậy tre vẫn đeo trên người (luôn mồm
gọi là súng), dồn mọi người vào phòng chờ để chào cờ. Ai không đứng lên đều bị
bác ấy đập.
- Thế ông ấy có đánh nhiều
người bị thương không?- Tôi sốt ruột hỏi.
- Không! Không ai bị thương
cả. Nhưng mấy cái ghế thì toe xơ mướp. Bác ấy cứ nhằm vào ghế mà phang, miệng
quát: ”Quân kỉ thế à…quân kỉ thế à…” Mấy anh công an bảo vệ nhà ga xông vào
can, thì bác ấy hô to: ”Nghiêm. Các đồng chí quản bộ đội như thế hả! Chỉ có tổ
chức chào cờ mà không xong, thì còn đánh đấm cái gì! Cách chức hết! Cách chức
hết…”
“Thấy ồn ào, ông Giám đốc
nhà ga chạy ra xem. Là một cựu quân nhân, ông Giám đốc hiểu ngay vấn đề, liền
gọi hết nhân viên ra tập trung, còn cho gọi cả mấy ông xe thồ ở ngoài vào xếp
hàng. Khi hàng ngũ đã chỉnh tề, ông Giám đốc bước đến trước mặt bác Hùng giậm
chân cái oạch, giơ tay lên báo cáo kiểu nhà binh: ”Báo cáo thủ trưởng, toàn đơn
vị đã tập trung xong. Xin phép làm lễ chào cờ”. Bác Hùng cũng giơ tay chào,
miệng nói: “Tốt.” Rồi quay ra hàng quân hô: ”Nghiêm. Chào cờ…chào. Quốc ca”.
Bác Hùng và ông Giám đốc hát đầu tiên. Dần dần mọi người cùng hát theo, nhưng
sang đoạn hai thì chẳng ai thuộc lời, chỉ còn một mình bác Hùng hát. Ông giám
đốc nhanh trí cho ghi lại lời đoạn hai của bài Quốc ca theo lời của bác Hùng,
sau đó lệnh cho tất cả cơ quan ai cũng phải học thuộc.”
- Coi như một tiêu chí thi
đua của nhà ga năm ấy. Bây giờ mà có cuộc thi hát Quốc ca, thì ga nhà cháu nhất
định chiếm huy chương vàng bác ạ.
Mặt cô gái rạng rỡ khi nói
về thành tích hát Quốc ca của cơ quan cô, nhưng tôi thì chỉ muốn biết buổi chào
cờ đầu tiên kết thúc như thế nào? Nên hỏi vội: “Thế khi chào cờ xong, thì ông
Hùng còn làm gì nữa không?”
“Không! sau lễ chào cờ, ông Giám đốc mời bác Hùng vào căn tin nhà ga chơi. Cô phụ trách căn tin mang ra một chai rượu nhỏ và một đĩa xào cho ông Giám đốc tiếp khách. Khi nâng cốc ngửi thấy mùi rượu, bác Hùng dằn mạnh cái cốc xuống bàn đánh ”cốp”, nhìn xoáy vào ông Giám đốc mắng: ”Ai cho phép các đồng chí uống rượu trong giờ làm việc hả. Không còn coi quân kỷ ra cái gì nữa! Dẹp ngay”. Ông Giám đốc nhanh trí lại giậm chân oạch một cái, đứng nghiêm: ”Xin lỗi thủ trưởng, tôi hứa sẽ sửa chữa khuyết điểm. Bây giờ thủ trưởng dùng gì ạ?” Bác Hùng nghiêng đầu nói: “Cho tôi cà phê đen không đường và bánh mỳ”.
“Không! sau lễ chào cờ, ông Giám đốc mời bác Hùng vào căn tin nhà ga chơi. Cô phụ trách căn tin mang ra một chai rượu nhỏ và một đĩa xào cho ông Giám đốc tiếp khách. Khi nâng cốc ngửi thấy mùi rượu, bác Hùng dằn mạnh cái cốc xuống bàn đánh ”cốp”, nhìn xoáy vào ông Giám đốc mắng: ”Ai cho phép các đồng chí uống rượu trong giờ làm việc hả. Không còn coi quân kỷ ra cái gì nữa! Dẹp ngay”. Ông Giám đốc nhanh trí lại giậm chân oạch một cái, đứng nghiêm: ”Xin lỗi thủ trưởng, tôi hứa sẽ sửa chữa khuyết điểm. Bây giờ thủ trưởng dùng gì ạ?” Bác Hùng nghiêng đầu nói: “Cho tôi cà phê đen không đường và bánh mỳ”.
Khi cô phục vụ mang cà phê
và bánh mỳ ra, bác Hùng nhận rồi cúi đầu chào, nở một nụ cười trẻ thơ, vừa đi
vừa lẩm bẩm: ”Cảm ơn…cảm ơn…cảm ơn!” Còn bây giờ thì bác biết rồi. Lâu lâu
không thấy bác Hùng xuất hiện, ai cũng nhắc. Mọi người mong bác Hùng ra để chào
cờ và hát Quốc ca…”
Cô gái vừa dứt lời thì
tiếng loa thông báo vang lên:
- Hành khách chú ý. Đoàn
tàu S2 đang vào ga tại đường sắt số 1…
Đó là đoàn tàu của tôi.
Tôi cảm ơn cô gái, rồi rẽ vào cửa soát vé lên tàu.
Vài ngày sau, khi trở về
thành phố của mình, đi uống cà phê, gặp một ông bạn cũ đang làm ở sở Văn hóa
thông tin, tôi hỏi:
- Cơ quan ông có hay chào
cờ không?
- Có chứ, nhưng sao ông
lại quan tâm chuyện chào cờ vậy?
- Không có gì. Thế lúc
chào cờ, mọi người có hát Quốc ca không?
- Trời ơi lạc hậu quá, bây
giờ chỉ cần đứng nghiêm thôi. Quốc ca đã có đĩa CD nó hát. Có ai thuộc hết Quốc
ca đâu!!!
Nghe bạn nói, lòng tôi
dâng lên một nỗi buồn xa thẳm. Tự nhiên trong đầu tôi hiện ra những mâm ngũ quả
bằng nhựa bầy trên bàn thờ ông bà ở một số gia đình. Tôi không thích những đĩa
nhạc quốc ca trong các lễ chào cờ và những mâm ngũ quả bằng nhựa ấy, chúng cứ
gợi cho tôi nghĩ đến những hành vi giả dối của con người! Tôi cứ tự hỏi: Những
tiếng cảm ơn…cảm ơn… cảm ơn mà ông Hùng vẫn nói sau khi chào cờ và nhận ly cà
phê cùng bánh mỳ…là vì cái gì? Vì mọi người đã cùng ông hát Quốc ca, để ông nhớ
và tự hào, về một thuở oanh liệt của đất nước, của đồng bào, đồng chí và của ông?
Hay là vì bánh mỳ và cà phê???
Có lẽ, ông đã cảm ơn vì cả
hai điều đó!
Huế 27/10/2012
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại ngày 15.7.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 29.9.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
________________________________________________
Tiền sự
– Truyện ngắn Hoàng
Thảo Chi (Huế)
Chủ
nhật - 30/09/2012 03:58
Mỗi lần
nghe thấy ai nhắc đến cụm từ: Tiền án, tiền sự… là tôi cứ muốn cãi lại. Bởi
theo tôi, là phải nói: Tiền sự, tiền án… thì mới đúng. Cái lý mà tôi đưa ra đơn
giản là như thế này: Ai đó đã làm một việc gì không đúng pháp lý hay đạo lý,
thì bị đưa ra tòa xét xử. Tùy theo sự sai sót đến đâu, thì tòa tuyên án đến đó.
Nghĩa là nhất định phải có SỰ trước, mới có ÁN sau. Vậy Tiền sự… Tiền án là
phải đạo! Nhưng thôi, chuyện đó khi nào có dịp, tôi sẽ viết hẳn một tham luận
hẳn hoi, gửi lên tận bộ Tư pháp đề nghị sửa đổi cụm từ này. Còn bây giờ, tôi
phải trở lạị Tiền sự… của tôi, kẻo mọi người lại cho là đồ rỗi hơi, hoặc cầm
đèn chạy trước ô tô… tóm lại là dở hơi… cũng nên.
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
TIỀN SỰ!
Mỗi lần nghe thấy ai nhắc đến cụm từ: Tiền án, tiền sự… là tôi cứ muốn cãi lại. Bởi theo tôi, là phải nói: Tiền sự, tiền án… thì mới đúng. Cái lý mà tôi đưa ra đơn giản là như thế này: Ai đó đã làm một việc gì không đúng pháp lý hay đạo lý, thì bị đưa ra tòa xét xử. Tùy theo sự sai sót đến đâu, thì tòa tuyên án đến đó. Nghĩa là nhất định phải có SỰ trước, mới có ÁN sau. Vậy Tiền sự… Tiền án là phải đạo! Nhưng thôi, chuyện đó khi nào có dịp, tôi sẽ viết hẳn một tham luận hẳn hoi, gửi lên tận bộ Tư pháp đề nghị sửa đổi cụm từ này. Còn bây giờ, tôi phải trở lạị Tiền sự… của tôi, kẻo mọi người lại cho là đồ rỗi hơi, hoặc cầm đèn chạy trước ô tô… tóm lại là dở hơi… cũng nên.
Tôi đồ rằng, tất cả mọi
người chúng ta, thuở thiếu thời đều có… Tiền sự cả. (Nếu ai đó phản
đối điều này, thì tôi cũng xin lỗi, nhưng trong thâm tâm, có đánh chết, tôi
cũng cứ tin như thế.) Tất nhiên, những tiền sự mà tuổi thơ
chúng ta mắc phải, có thể là chưa đến mức phải đưa ra tòa, nhưng mỗi khi nhớ
lại cũng thấy hơi mắc cỡ một chút. (Mà nói theo tiếng của người Huế, tôi cho là
rất hay và rất lạ. Âý là: Ốt dột… Cứ mỗi lần nghe hai tiếng này, tôi cứ thấy
gai gai ở sống lưng). Có thể đó là những lần ta nói dối cha mẹ, thầy cô. Có thể
đó là những lần ta lấy trộm một thứ vặt vãnh gì đó mà không ai biết, hoặc bị
bắt quả tang, nhưng được khổ chủ tha cho... Mọi Tiền sự ấý, tưởng như chúng ta
lãng quên, nhưng thực ra chúng mãi mãi nằm trong hành trang, đi theo cùng ta
trong suốt cuộc đờì. Nhiều khi nó đóng góp rất tích cực vào sự hoàn thiện nhân
cách của con người, nếu những tiền sự ấy được nhìn nhận dưới những
ánh mắt hiểu biết, bao dung và những tấm lòng cảm thông, yêu thương, vị tha của
người lớn.
Tôi sinh ra và lớn lên ở
một xóm nhỏ vô cùng nghèo khó, giữa vùng đất đồng chiêm trũng Bắc bộ. Cùng
trang lứa với tôi có đến chục thằng con trai. Chúng tôi nghịch ngợm, phá phách
thì quỷ còn lè lưỡi, đứng từ xa mà nhìn. Mọi người trong xóm gọi chúng tôi là:
Bọn giặc cỏ. Cái thời cách đây gần nửa thế kỉ, chúng tôi đi học rất chi là
nhàn nhã. Mỗi thằng chỉ vài ba cuốn vở, ba thằng chung nhau một bộ sách giáo
khoa. Chỉ học một buổi, còn một buổi tha hồ đi chơi, đá bóng hoặc chăn trâu,
chăn vịt, cắt cỏ, bắt cua, mò cá… nô đùa thỏa thích. Trong vô vàn những kỉ niệm
tuổi thơ ấy, có một kỉ niệm tôi không thể nào quên. Bởi nó là một kỉ niệm vô
cùng đặc biệt, và tôi liệt nó vào hạng… Tiền sự trong tuổi thơ của mình.
Dạo đó, tôi luôn là thủ
lĩnh của đám giặc cỏ trong xóm . Mà đã là thủ lĩnh thì phải luôn nghĩ ra những
trò hấp dẫn, mới lạ bọn thuộc hạ mới phục. Nhưng tôi chỉ là con cháu ngàn đời
của cụ Đinh Bộ Lĩnh nên chỉ nghĩ ra toàn những trò nghịch ngợm dại dột. Đại
loại như chia đám giặc cỏ ấy ra làm hai phe, mỗi phe chiếm một phía của bãi tha
ma rồi tấn công nhau, bằng những cục đất vẫng cầy cứng như đá. Kết thúc cuộc
chiến, mỗi phe thế nào cũng có vài thằng u đầu sứt trán. Những chiến binh này,
nhất định sẽ còn phải nhận vài cán quạt nan vào đít, khi chúng chiềng cái mặt
thâm tím ấy ra trong bữa cơm cùng gia đình, vì không sao giải thích một cách
lọt tai, cái nguyên nhân xuất hiện những vết thương đó. Chiến tranh mãi thì
cũng phải hòa bình. Chúng tôi đã chán trò ném nhau, và muốn tìm kiếm những trò
chơi khác. Cái này là nhiệm vụ của tôi, trách nhiệm thiêng liêng và cao cả của
một thủ lĩnh…
Nằm sát cạnh nhà tôi, là
nhà ông Th làm nghề thợ may. Ngôi nhà ba gian, tường xây gạch, mái lợp ngói của
ông lúc đó, đối với chúng tôi tựa một biệt thự tráng lệ. Ông chắc chắn là người
giàu có và hiểu biết nhất xóm tôi lúc đó. Bằng chứng là ở gian nhà trong cùng,
ông treo toong teng cái xe đạp (Cứ như ông nói là của Pháp và lúc đó cả xóm tôi
chỉ có cái đó là duy nhất) lúc nào cũng láng coong, sạch như lau như lia. Trên
khung xe treo một tấm biển đăng kí hình chữ nhật màu trắng có đến mấy con số
màu đen. Ông Th bảo đó là “cái chứng minh thư” của xe đạp. (Chúng tôi cũng gật
gù ra vẻ biết, chứ thực ra chúng tôi chả hiểu chứng minh thư nghĩa là
gì !!!) Cái chúng tôi thích nhất vẫn là cái chuông xe, chỉ cần bấm nhẹ, là nó
ngân lên kính coong… du dương như một bản nhạc. Trên tường nhà ông, treo nhiều
tấm ảnh mà chúng tôi vô cùng ngưỡng mộ. Âý là những tấm ảnh chụp khi ông đứng
trước cổng chợ Bến Thành, bên hồ Hoàn Kiếm… Còn tấm ảnh bán thân ông mặc
com-lê, đầu đội mũ phớt, tay cầm điếu thuốc lá, mắt đăm chiêu nhìn khói thuốc
ngoằn ngèo bay lên, thì y hệt một minh tinh màn bạc nổi tiếng vậy. Những bức
ảnh ấy, ông bảo là ông chụp tại Sài Gòn, Hà Nội đầu những năm năm mươi. Cứ như
cách Mẹ tôi nói: Đi một ngày đàng, học một sàng khôn… thì ông hẳn là một người
từng trải, lịch lãm khôn ngoan có thừa. Tuy vậy ông lại rất thích và quý bọn
giặc chúng tôi. (Chắc ông không có con trai nên ông quý chúng tôi cũng nên. Âý
là tôi nghĩ vậy). Thỉnh thoảng chúng tôi vẫn kéo cả lũ đến nhà, xem ông may
quần áo, xin ông cho mỗi đứa bấm chuông xe đạp một lần, rồi thu nhặt những
miếng vải đầu thừa đuôi thẹo, bó lại thành quả bóng, mang ra sân đình tranh
cúp. Một lần, thấy chúng tôi kéo đến, ông ngừng chân đạp máy, lôi trong cái túi
vải treo trên cánh tủ một quả bóng cao su đỏ au, to bằng quả bưởi rồi nói:
- Đây! Tặng cho bọn giặc
cỏ quả bóng cao su thiệt. Tha hồ mà đá nhé.
Lần đầu tiên, chúng tôi
chứng kiến quả bóng bằng cao su hẳn hoi. Từ xưa tới giờ, chúng tôi toàn đá
những quả bóng bằng vải, hoặc bằng những quả bưởi nướng lên, nên bây giờ mục
kích quả bóng bằng cao su, chúng tôi không tin vào mắt mình nữa. Cả bọn chuyền
tay nhau quả bóng, sờ sờ, nắn nắn rồi đưa lên mũi hít hà. Chà! quả bóng mới
thơm làm sao!!!
- Ông cho chúng cháu
thật?- Tôi rụt rè hỏi.
- Ừ! Ông mất cả buổi chiều
hôm qua, tìm hết cả thành phố Nam Định, mới mua được quả bóng này cho các anh
đấy.
- Chúng cháu cảm ơn ông ạ!
Bọn tôi nhao nhao cảm ơn, rồi ném quả bóng xuống sân nhà ông đá thử.
- Ấy khoan đã!
- Ấy khoan đã!
Ông giơ tay ngăn chúng tôi
lại, rồi chỉ vào tôi nói:
- Anh cu L vào đầu giường,
bê cái hộp giấy ra đây cho ông!
Theo tay ông chỉ, tôi tìm
ngay được cái hộp giấy mà ông đã nói, bê ra sân. Cả lũ chúng tôi vây quanh lấy
cái hộp, phấn khích đến vô cùng. Ông từ từ mở nắp hộp, tôi thấy mấy gói kẹo
lạc, hàng chục quả cam mọng căng.
- Liên hoan hả ông???…-
Tôi hỏi trong trạng thái gần như là ngộp thở!!!
Có bóng mới thì phải liên
hoan chứ. Đây là kẹo lạc ông mua ở phố hôm qua, còn đây là cam ông hái trong
vườn nhà. Các anh mang ra sân đình liên hoan, rồi đá bóng. Bây giờ ông phải làm
việc.
Chúng tôi tranh nhau cảm
ơn ông rối rít, rồi rầm rập chạy ra sân đình cứ như đi cứu hỏa vậy.
Cuộc chơi với quả bóng cao
su phải kéo dài hàng tháng. Suốt thời gian đó, chúng tôi không còn thiết tha
với bất kì trò gì khác. Hễ rảnh lúc nào là chúng tôi tập trung đá bóng lúc đó.
Nhiều khi chỉ có hai đứa, cũng chia đôi đá chí tử. Chúng tôi càng đá thì càng
khỏe, nhưng quả bóng thì mỗi ngày lại tả tơi thêm một ít. Cái gì thì cũng có
giới hạn cả. Qủa bóng cao su quý giá của chúng tôi cũng thế. Một buổi chiều,
khi hiệp một của trận đấu đang ở tỷ số 0 – 1 (nghiêng về đội bên kia) thì xảy
ra sự cố. Khi tôi dẫn bóng đến trước khung thành của đối phương, thì thằng B
hậu vệ, xông thẳng vào tôi với một cú ngáng chân như trời giáng. Tôi ngã lộn
đến mấy vòng. Tất nhiên là một quả phạt đền trực tiếp xuất hiện. Cay cú vì đang
thua và nhất là vì cái ngáng chân kia, tôi đã sút quả phạt với một một sức mạnh
kinh hoàng. Không biết là vận tốc quả bóng đạt mấy mét một giây, mà thằng T,
thủ môn của đối phương chỉ biết đứng há hốc mồm, nhìn quả bóng bay vút vào gôn
như một tia chớp, và đập vào tường nghe ”bốp” một phát, y hệt tiếng đập của một
cục đá vậy. Cả đội tôi nhảy cỡn lên vì quả gỡ hòa 1-1 vô cùng ngoạn mục. Nhưng
niềm vui sướng của chúng tôi chưa kéo dài được mấy giây, thì đã bị tiếng thét
thất thanh của thằng T thủ môn, dập tắt trong chớp mắt:
- Vỡ rồi!!!
- Vỡ cái gì???- Tất cả
chúng tôi như đồng thanh hỏi cùng một lúc rồi chạy dồn về phía nó.
- Bóng vỡ rồi!
Tất cả chúng tôi đứng chết
lặng. Thằng T giơ quả bóng lên cao. Qủa bóng gần như rách đôi. Chúng tôi chuyền
tay nhau vĩnh biệt quả bóng vỡ, với tất cả nỗi buồn thê thảm. Kỉ nguyên bóng
cao su đã chấm dứt. Ngày mai chúng tôi lại trở về với những quả bóng bưởi và
bóng vải… muôn năm cũ.
Trong thời khắc đen tối
ấy, trong đầu tôi bỗng lóe một quyết định:
- Tối mai, bọn mình sẽ
chơi trò: Đưa ma quả bóng. Thằng T chuẩn bị đào huyệt cho quả bóng ngoài ruộng
mạ. Thằng B thì chuẩn bị 10 cái thăm.
Cả bọn nhao nhao bàn tán,
nhưng cuối cùng cũng thống nhất một trăm phần trăm. Cái trò “đưa ma” của chúng
tôi rất đơn giản. Một thằng giả vờ chết, nằm thẳng đơ trên mặt đất, hai tay
chắp lên bụng. Chín đứa còn lại thì bố trí đội hình như sau: Một đứa nâng đầu,
chia mỗi bên bốn đứa, đứng đối xứng với nhau. Tất cả chỉ dùng một ngón tay trỏ
bên phải để nâng thằng chết. Chuẩn bị nâng, thì đứa khênh phía đầu thằng chết,
quay sang phía tay phải hỏi thầm: Ông đi đâu đấy? Đứa được hỏi trả lời: Tôi đi
đưa đám đây. Cứ lần lượt hỏi đáp vô cùng trang nghiêm như thế cho đến hết. Khi
thằng cuối cùng vừa trả lời dứt, thì đồng loạt nâng thằng chết lên, im lặng di
chuyển đến chỗ gọi là lỗ huyệt thị hạ xuống. Trò chơi nàỳ, chẳng thằng nào muốn
làm thằng chết, rất hay cãi nhau, nên phải sinh ra trò bốc thăm là như vậy. Tối
mai, thằng nào bốc phải lá thăm ghi chữ “chết “ thì sẽ đặt quả bóng lên ngực để
khênh đi.
Đang định giải tán ra về thì thằng B đột ngột nêu ra một câu hỏi:
Đang định giải tán ra về thì thằng B đột ngột nêu ra một câu hỏi:
- Thế mai chôn quả bóng
thật, mà lại không có lễ gì à?
Một câu hỏi thật khó trả
lời. Cả bọn bàn đi tính lại, rốt cuộc cũng chẳng nghĩ được cái chi. Gần hai
chục con mắt tự dưng chăm chú nhìn vào tôi. Tôi hiểu ngay là chúng muốn gì!
Giữa phút gay cấn đó, tự nhiên hình ảnh những quả cam căng mọng trong vườn nhà
ông Th thợ may hiện ra thấp thoáng trong đầu tôi. Nhưng lập tức tôi vội xua
chúng đi. Một cảm giác tội lỗi dâng lên làm tôi tự nhiên toát cả mồ hôi trán.
Thật xấu hổ, nếu mò vào vườn vặt trộm mấy quả cam, mà ông Th tóm được… thì chỉ
có cách là độn thổ, chứ làm sao mà còn có thể vác mặt nhìn ông được. Bí quá,
tôi đành phải nói thật với cái lũ đang dương mắt nhìn tôi kia:
- Tao vừa nghĩ là đêm nay
lủi vào vườn nhà ông Th, vặt trộm mấy quả cam để tối mai làm lễ. Nhưng tao sợ,
ông ấy mà tóm được thì chết bỏ mẹ!!!
Nghe tôi nói, bọn chúng
không nhìn tôi nữa mà quay sang nhìn nhau, có vẻ suy nghĩ lung lắm. Thấy bọn
chúng im lặng, tôi bàn lùi luôn:
- Thôi không cần lễ nữa,
chôn quả bóng không cũng được!
Chẳng thấy thằng nào nói
gì, tôi đang định thở phào thoát nạn, thì thằng B thủng thẳng lên tiếng:
- Mày sợ, thì cùng chúng nó chờ bọn tao ở đây. Chín giờ tối, tao với thằng T sẽ bơi qua ao vào vặt. Lúc đó ông ấy đang mải nghe Ga-len… tiếng thơ, làm sao mà biết được!!!
- Mày sợ, thì cùng chúng nó chờ bọn tao ở đây. Chín giờ tối, tao với thằng T sẽ bơi qua ao vào vặt. Lúc đó ông ấy đang mải nghe Ga-len… tiếng thơ, làm sao mà biết được!!!
Trời ơi, cái thằng
thiên lôi đả này, lúc nào nó cũng muốn ngáng chân tôi cho bằng được!!! Nó
định làm mất uy tín thủ lĩnh của tôi đây! Tôi bực bội nghĩ bụng. Nhưng cách
phân tích của nó cũng chấp nhận được. Thời chúng tôi, chín giờ tối đã khuya lắm
rồi. Lúc đó, trên sóng đài tiếng nói Việt Nam thường là chương trình “Tiếng
thơ”. Xóm tôi lúc đó, không nhà nào có rađiô, chúng tôi biết được điều này cũng
chính nhờ cái Ga-len của ông Th. Bây giờ nói đến hai từ Ga-len (hoặc là đại loại
như thế… tôi chỉ nghe người ta nói mang máng như vậy rồi phiên âm ra đây, chứ
đích thị viết như thế nào, thì tôi chịu!) chắc chẳng mấy ai còn nhớ. Nó như thế
này: Người ta căng một sợi dây kim loại dài khoảng 15 đến 20 m qua hai cái cột
cao, rồi dùng một dây kim loại khác nối từ dây kim loại trên cao xuống nhà. Cái
dây ấy nối vào một đầu cục sắt hình hộp chữ nhật đen sì (nó là cái gì chúng tôi
không biết) rồi đầu bên kia cắm một cái tai nghe có hai núm đen nhỏ. Khi nghe,
đút hai cái núm đó vào hai tai, nghe được đài. Lúc đó có trống đánh bên tai
cũng chẳng nghe thấy gì… Thằng cu B cũng có lý. Thôi thì một liều ba bẩy
cũng liều, nếu không tham gia với cái thằng thiên lôi đả này, kể ra
cũng mất uy tín thủ lĩnh thật.
Sau một hồi suy sét, tôi
quyết định:
- Thôi được. Tất cả chúng
mày về nhà đi. Chín giờ tối, tao với thằng B, thằng T sẽ tìm cách. Mà mỗi thằng
chỉ vặt một, hai quả thôi, đừng tham mà chết…
Tôi cố gìm sự ham hố của
hai thằng kia lại.
Sau bữa tối, chờ cho mẹ
tôi nấu xong nồi cám lợn (ngày nào mẹ tôi cũng làm công việc cuối cùng này vào
tầm chín giờ đêm) tôi định đi tìm thằng B và thằng T, thì đã thấy chúng thấp
thoáng ngoài ngõ nhà tôi.
Nhà ông Th quay mặt về
hướng Nam. Trước nhà ông là cái sân đất nhỏ rồi đến khoảnh vườn có năm sáu cây
cam sai trái. Tiếp theo là một cái ao hình chữ nhật, chiều ngang khoảng 20m, bờ
ao phía ngoài là những bụi tre um tùm. Theo kế hoạch, chúng tôi sẽ bí mật từ
những bụi tre bên kia bơi qua ao, sang vườn nhà ông Th để trộm cam. Trời đêm
cuối tháng tám không có trăng nhưng đầy sao, cộng với những đôi mắt sáng như
mắt mèo của chúng tôi, nên không có cảm giác chi là tối. Chúng tôi nhẹ nhàng
bơi qua ao, rồi leo lên vườn êm như bọn nhái bén. Gặp cây cam đầu tiên, thằng T
xăng sái sờ lần, bứt ngay một quả và dúi vào tay tôi. Cầm quả cam trên tay, tôi
biết ngay là cây này chưa ăn được, khô mà ít nước. Tôi kéo hai thằng lại gần
nói thầm:
- Cây này chưa ăn được,
cây ở gần bể nước là quả ngon nhất.
Hai thằng tuân lệnh, chúng
tôi nhằm cây cam phía bể nước dò dẫm đi tới. Mới bước được một hai bước, tôi
bỗng thấy một tia sáng chói ngời, như một ánh chớp từ phía bể nước chiếu thẳng
vào chúng tôi trong tích tắc rồi vụt tắt. Chúng tôi nằm rạp xuống đất, ba hồn
bẩy vía bay đi đâu hết!!!
- Cu L, cu B, cu T phải
không? Đứng yên đấy, để ông ra soi đèn cho mà đi. Cẩn thận không chết đấy.
Chúng tôi không còn ý thức
được cái gì đang xảy ra, cứ răm rắp làm theo lời ông Th. Sau khi ba thằng chúng
tôi đã yên vị ngồi xuống giữa sân, dúm dó như ba cái xác không hồn, ông vỗ vai
tôi hỏi nhỏ:
- Bọn giặc cỏ muốn ăn cam
phải không?
Tôi như bừng tỉnh sau một
chuyến mộng du, xấu hổ không để đâu cho hết, lí nhí trả lời:
- Dạ…không ạ…chúng cháu
chỉ….
Tôi muốn giải thích cái lí
do bắt buộc chúng tôi đến trộm cam của ông chỉ là để làm lễ an táng quả bóng mà
thôi, chứ chúng tôi không cố ý… nhưng lúc ấy làm sao mà cất lời lên được.
- Ông hiểu rồi. Lần sau
cần, cứ đến xin ông hái cho. Lúc nãy chúng mày làm ông sợ vỡ cả tim. Trưa nay,
ông mới tôi một hố vôi, ngay sát cây cam cạnh bể nước, vẫn còn sôi ùng ục. Ông
có che mấy lá cót lên trên, phòng chó mèo sa xuống. Chúng mày không biết, cứ
bước lên... thì ông chết mất!!!
Nghe ông nói mà tôi lạnh
toát cả người. Biết là chúng tôi đang sợ và ngượng, ông cười nói:
- Thôi, bây giờ ổn rồi,
đừng sợ nữa. Ông tha cho. Giờ ông soi đèn pin, ba thằng vào cây sát bể nước vặt
lấy mười quả. Nhớ là phải vặt những quả ở cành lá mới ngọt.
Chúng tôi không hiểu những
điều mình đang nghe, không biết những gì sắp xảy xa, nên cứ đứng ngây thổ
địa như phỗng vậy. Thấy bộ dạng buồn cười của bọn tôi ông khích bác:
- Các anh lúc bình thường
thấy oai hùng lắm cơ mà, sao bây giờ trông giống như ba con gà rù vậy? Dạo bằng
tuổi các anh, bọn ông cũng nhiều lần chui vào vườn cụ Ba đầu làng vặt trộm mít.
Một lần bị cụ bắt được, đã không bị đánh mà cụ còn vào nhà xách ra cho một quả
mít to tướng thơm nức, bảo mang ra sân đình mà ăn. Lần sau nếu thèm cứ vào xin,
chứ đừng leo lên hái trộm, nhỡ gẫy cành rơi xuống, gẫy chân gẫy tay thì khốn!!!
Từ đấy bọn ông không đi ăn trộm nữa. À, cái này là bí mật giữa mấy ông cháu
mình thôi, đừng kể cho ai biết nghe không?
Ông thì thào nói với chúng
tôi như thể đồng đảng vậy. Tâm sự của ông rất ngắn, nhưng lập tức đánh tan mọi
nghi ngờ trong tôi. Biết là ông thật lòng tha thứ và thông cảm, tôi mạnh dạn
nêu thắc mắc mà từ nãy đến giờ tôi không sao lí giải được:
- Sao ông tài thế, tối thế
này mà cũng biết bọn cháu vào trộm cam, lại đứng đợi sẵn cạnh hố vôi vậy???
Ông không trả lời ngay, mà
hỏi ngược lại:
- Thế anh cu nào bẻ quả
cam đầu tiên?
- Cháu ạ…- Thằng T sốt
sắng trả lời.
- Ờ…- Trời tối thế này,
làm sao ông trông thấy các cháu. Ông lại đang nghe tiếng thơ nên cũng chẳng
thấy tiếng động gì. Nhưng đang có gió nồm nam, khi cu T bẻ quả đầu tiên, là gió
đã đưa hương cam vào mũi ông rồi. Ông biết là thế nào các cháu cũng vào bẻ cam
ở cây ngon nhất cạnh hố vôi, nên vội ra chờ sẵn ở đây thôi, tài tình cái gì…
Trời ơi! Ông đã nhận ra
chúng tôi bằng mũi. Tôi biết tạ ơn ông, tạ ơn những cơn gió nồm nam và mùi
hương của những quả cam quê tôi như thế nào đây cho phải!!! Nếu như không có
chúng báo cho ông sớm, biết đâu chúng tôi đã tự sa xuống cái hố vôi nóng như
núi lửa kia, không chết thì cũng tàn phế suốt đời rồi cũng nên.
Ông Th đã quy tiên từ lâu
lắm rồi. Bây giờ tôi cũng đã gần bằng tuổi ông khi đó. Nhưng khi đang viết
những dòng này, tất cả mọi thứ ngỡ như chỉ mới hôm qua. Đã bao lần tôi cứ tự
hỏi: Có thật là lúc bé, ông Th và các bạn của ông cũng đi ăn trộm giống
chúng tôi không? Chẳng còn ai có thể trả lời được câu hỏi ấy nữa. Nhưng có hay
không thì bây giờ, có nghĩa gì nữa đâu. Cái ý nghĩa lớn nhất, là ông đã kể về
cái Tiền sự… của ông vào thời khắc quan trọng nhất, nó như một cái phao cứu
sinh được ném ra đúng vào lúc, chúng tôi sắp bị con sóng đầu tiên của tội lỗi
cuốn đi. Viết đến đây, tự nhiên tôi nhớ đến một câu trong bài hát Để gió cuốn
đi…của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn: Sống trong đời sống cần có một
tấm lòng… Tôi thật may mắn đã được gặp một trong những tấm lòng nhân ái
ấy, để quả cam trong Tiền sự… của tôi mãi mãi ngọt ngào thơm ngát, bởi nó không
kéo theo hai từ Tiền án…đi cùng.
Huế 26/9/2012
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại ngày 15.7.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 29.9.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
________________________________________________
Anh Ma
– Truyện ngắn Hoàng
Thảo Chi
Chủ
nhật - 19/08/2012 22:00
Cứ như
U tôi kể lại, thì cái vùng quê nhà tôi là lắm ma nhất nước. Nào là ma ru con
trên cây gạo ở đầu làng Bún lúc chạng vạng tối. Nào là ma đi chợ Huyện ăn bánh
đúc lúc sáng sớm. Nào là ma đi tát nước lúc nửa đêm… Tất cả những chuyện ma
này, U tôi bảo đều có những người đã gặp và ở những địa điểm rất cụ thể. Nhưng,
những nhân chứng đó đều cũng đã hóa ma từ lâu lắm rồi. Nên chẳng còn gì để kiểm
chứng. Dẫu vậy, tất cả bọn con nít chúng tôi đều tin những chuyện ma mà U tôi
kể là hoàn toàn có thật. Và U tôi cũng nói thêm rằng:
Thông
tin cá nhân: (VanDanViet)
Tác
giả Hoàng Thảo Chi
Tên
thật Hoàng Văn Luận
Địa
chỉ: 108 Phan Văn Trường TP Huế
Điện
thoại: 0946370099
Email: hoangthaochi87@yahoo.com.vn
_____
ANH MA
(Thân tặng tuổi thơ tôi)
Cứ như U tôi kể lại, thì
cái vùng quê nhà tôi là lắm ma nhất nước. Nào là ma ru con trên cây gạo ở đầu
làng Bún lúc chạng vạng tối. Nào là ma đi chợ Huyện ăn bánh đúc lúc sáng sớm.
Nào là ma đi tát nước lúc nửa đêm… Tất cả những chuyện ma này, U tôi bảo đều có
những người đã gặp và ở những địa điểm rất cụ thể. Nhưng, những nhân chứng đó
đều cũng đã hóa ma từ lâu lắm rồi. Nên chẳng còn gì để kiểm chứng. Dẫu vậy, tất
cả bọn con nít chúng tôi đều tin những chuyện ma mà U tôi kể là hoàn toàn có
thật. Và U tôi cũng nói thêm rằng: Sơn ăn tùy mặt, ma bắt tùy người. Nghĩa
là chỉ có những người yếu bóng vía thì ma mới bắt nạt và hay gặp ma thôi, còn
những người cứng bóng vía thì ma nó sợ, nên chẳng bao giờ gặp được chúng. Tôi
thì chẳng hiểu thế nào là yếu với lại cứng bóng vía, nhưng thật sự đã có lần
tôi bị ma đuổi đến nỗi: Quấn ra đài… nghĩa là: Đái ra quần, theo cách nói lái
của dân Nam Định chúng tôi. Dẫu đã biết bao năm tháng trôi qua, nhưng mỗi lần
nghĩ lại chuyện đó, tôi vẫn còn nổi da gà… và không thể kìm nổi một nụ cười.
Hôm nay tôi quyết định kể lại chuyện đó cho mọi người cùng nghe. Nhưng đầu tiên
cũng cần nhắc lại lời U tôi đã cảnh báo: Sơn ăn tùy mặt…
Chị cả tôi lấy chồng ở
làng Bún, cái làng có cây gạo mà cứ chạng vạng tối là ma lại ru con ời ợi trên
cành (Theo lời U tôi kể). Cái cây gạo ấy nằm ngay cạnh con đường duy nhất nối
làng tôi và làng Bún. Xung quanh gốc cây gạo, những bụi dứa dại cao quá đầu
người mọc um tùm. Sát chân cây có một ngôi miếu hoang, không biết ai xây và xây
tự bao giờ? Ngôi miếu ấy đã cũ kĩ, rêu phong cùng thời gian. Nó chỉ được nhang
khói mỗi năm một lần vào dịp rằm tháng Bảy (Rằm cúng cô hồn, xá tội vong nhân)
do những người qua đường thắp để cầu xin điều gì đó. Mọi người truyền tai nhau
là ngày xưa: Có hai mẹ con người ăn mày đã nằm ôm nhau mà chết ở gốc gạo này vì
đói quá. Cho nên từ bấy đến nay, hai oan hồn ấy vẫn cứ mỗi chiều muộn lại hiện
lên trên cành gạo để ru nhau, kéo dài khúc ca bi ai về nỗi đói khổ tột cùng của
vùng đất chiêm khê, mùa thối… quê tôi.
Tất nhiên là tôi tin và sợ
hai mẹ con nhà ma trên cái cây gạo ấy lắm lắm… Nhưng khổ nỗi, cái con cháu con
bà chị cả tôi, thỉnh thoảng nó lại nhắn rằng:
- Cậu ơi, chiều nay mẹ
cháu lại nấu bầu với lạc, cậu xuống ăn với cháu nhé… Cái thời tôi chín, mười
tuổi, cả vùng quê nhà tôi đói rã rượi. Món bầu nấu với lạc có một mãnh lực
khủng khiếp, đánh bạt mọi nỗi lo ngại, đủ để tôi quên sự đối đầu với mẹ con nhà
ma ở gốc gạo nọ. Tôi nhớ như in cái lần… Ma đuổi… ấy với tất cả những chi tiết
nhỏ nhất. Hôm đó chắc là vào trung tuần tháng sáu. Chập tối trăng đã sáng vằng vặc.
Sau khi húp hết bát canh bầu và nhai thêm vài củ dong giềng, (loại dong thường
để làm miến) tôi và con cháu, ba chân bốn cẳng chạy vù sang hàng xóm nhập hội
với lũ bạn chơi trốn tìm. Mải chơi, đêm khuya lúc nào không hay. Đến lúc con
cháu liêu xiêu đến cạnh tôi đòi về, vì nó đã buồn ngủ quá. Tôi ham chơi nên bảo
nó là chờ thêm một lúc. Nó không chịu mà làu bàu nói rằng:
- Thế cậu không sợ ma ở
cây gạo à? Hay đêm nay cậu ngủ lại nhà cháu mai về sớm.
Tôi như bị dội một gáo
nước sôi vào đầu. Bố khỉ! Thật là tiến thoái lưỡng nan. Về thì sợ, mà ngủ lại
nhà chị tôi, thì đúng là: Vạch áo cho người xem lưng. Ban ngày khi nói chuyện
ma, tôi luôn tỏ ra xem thường hết thảy bọn ma quỷ. Tôi trở thành thần
tượng của con cháu tôi, bởi nó là đứa sợ ma nhất trên quả đất này. Và tránh cho
sự sụp đổ của thần tượng, tất nhiên là tôi phải chọn giải pháp kinh hoàng nhất…
đó là trở về nhà tôi.
- Vớ vẩn, tao mà lại sợ
à!!!
Tôi quát con cháu, nhưng
chính là tự chấn an mình. Sau khi đưa cháu vào nhà tôi quay ra, đứng thẳng, hít
một hơi thật sâu và chợt nhớ lại lời U tôi nói: Sơn ăn tùy mặt… Ma bắt tùy
người. Trời ơi! Câu này phải nói là câu hay nhất trong tất cả những câu chuyện
ma mà U tôi vẫn kể. Tôi tràn trề hi vọng về một ngoại lệ nào đó giành cho mình.
Cùng với niềm hi vọng ấy tôi tiến bước. Chỉ sau vài phút, cây gạo đã hiện ra ở
phía trước. Lúc này tôi bắt đầu có cảm giác là lạ. Không gian ở đây hình như
đang rộng ra đến vô cùng. Cả cánh đồng cày ải mênh mông, bỗng rực lên một màu
trắng bạc ma quái. Còn cây gạo cùng với những bụi dứa dại thì đen sì và hình
như chúng cứ cao lên, cao lên mãi. Trong tai tôi văng vẳng tiếng kẽo kẹt của
cái võng đay, tựa tiếng nghiến răng tức tưởi, lúc gần lúc xa làm bước chân đầy
dũng khí của tôi chùng lại. Câu nói: Sơn ăn tùy mặt… của U tôi, lúc này hình
như không còn đúng lắm!!! Tôi ngồi thụp xuống ven đường, nghe thấy cả tiếng tim
mình đập ùm ụp. Tay tôi chống xuống hàng đất vẫng cầy, những cục đất khô cứng
chạm vào những ngón tay, làm lóe lên trong tôi một phương án cực kì tuyệt diệu
vào lúc tuyệt vọng nhất. Đúng, tôi phải bất ngờ tấn công mẹ con nhà ma, trước
khi chúng phát hiện ra tôi mà giở trò gì đó. Nghĩ sao làm vậy, tay tôi lựa cục
đất khô và vừa tay, lao về phía trước, vận hết công lực ném cục đất với vận tốc
cực mạnh về phía cây gạo và chạy lướt qua vùng ma quái ấy với tốc độ có lẽ là
còn nhanh hơn tốc độ của chú Mèo đi hia trong phim thần thoại của Liên Xô mà
tôi hằng yêu thích. Nhưng: "Mưu sự tại Nhân, thành sự tại Thiên”… Một chữ
"Ngờ” to tướng đã phản tôi trong những bụi dứa dại kia, nhưng tôi đâu có
biết.
Số là: Khi nghe thấy tiếng
bụp… mà cục đất táng vào thân cây gạo vọng đến tai tôi, thì đồng thời một tiếng
phụ nữ cũng la lên ôi ối… Khi nghe thấy tiếng la khiếp đảm ấy, tôi không còn
chạy nữa. Tôi như bay là là trên mặt đường, toàn bộ cơ thể tôi như rơi vào vùng
không trọng lượng. Sau này lớn lên tôi biết rằng: Đó là trạng thái mà các nhà
du hành vũ trụ vẫn gặp khi họ bay vào tầng khí quyển của trái đất. Vậy mà tôi
chẳng tốn kém một đồng xu, chi cần cục đất ném ma, tôi cũng bay được vào vũ trụ
như họ... Khi còn đang lửng lơ như vậy, tôi bỗng thấy trời đất tối sầm, một bàn
tay cứng như thép bóp lấy gáy dựng tôi dậy (hóa ra từ nãy tới giờ tôi bị quýu
chân nằm phủ phục trên mặt đường, chứ có bay nhảy chi đâu!!!). Một tiếng quát
rền vang như tiếng sấm mùa hạ làm tôi lọng cả óc:
- Oắt con, tại sao mày lại
ném chúng tao? Muốn chết hả!!!
Một cảm giác lạnh buốt,
chạy từ đầu xuống chân làm tôi đông cứng lại. Có luồng nước nong nóng không
biết từ đâu làm ướt cái quần đùi đang mặc, chảy xuống hai chân làm tôi dần dần
tỉnh lại. Tôi nhận ra giọng cái "con ma” đang bóp gáy tôi.
- Anh T à… em đây ạ
... em chỉ ném để dọa mẹ con nhà ma thôi. Em có biết anh ngồi trong ấy đâu.
Một tiếng cười của phụ nữ khúc khích sau bụi dứa. Bây giờ thì tôi đã hiểu tất cả. Tôi ngây ngô hỏi anh T:
Một tiếng cười của phụ nữ khúc khích sau bụi dứa. Bây giờ thì tôi đã hiểu tất cả. Tôi ngây ngô hỏi anh T:
- Thế anh chị không sợ ma
à???
- Ma cái con khỉ, mày ném
đúng vào cái lúc… Mất cả hứng…
Anh T chợt ngừng lời vì
biết đã nói lỡ miệng, quay ra quạu với tôi:
- Khiếp, khai bỏ mẹ. Mày
đái cả ra quần rồi, biến nhanh đi, anh mày mà biết lại cho một trận tuốt xác.
Bây giờ tôi mới ngửi thấy cái mùi khai nồng nặc của chính mình!!! Ngượng chín cả người, tôi quên chào anh T, phi thẳng một mạch về nhà… Phiêu dạt bao nhiêu năm, tôi trở lại làng xưa cũng vào một buổi chiều giữa hạ. Tôi xuống xe khách ngoài quốc lộ, rồi đi bộ vào làng. Mọi cái đã khác xưa nhiều lắm. Người trong xóm có xu hướng tràn ra hai bên quốc lộ để ở. Làng quê đang "phố hóa” khá rõ. Trên con đường vào làng, tôi không gặp một người quen nào. Đi ngược chiều với tôi toàn là những thanh, thiếu nhi mới lớn. Ở chúng, từ quần áo, giày dép đến tóc tai… đều phảng phất bóng dáng các diễn viên Hàn Quốc… Thời đại của chúng nó đã khác xa thời đại của chúng tôi. Vào gần đến làng, một ông lão tóc đã bạc trắng, dáng gầy gò từ thửa ruộng sát đường bước lên. Chưa nhận ra ai, nhưng đoán chắc ông ta là người cùng thời đại với mình, nên tôi cất tiếng chào trước: Chào cụ.
Bây giờ tôi mới ngửi thấy cái mùi khai nồng nặc của chính mình!!! Ngượng chín cả người, tôi quên chào anh T, phi thẳng một mạch về nhà… Phiêu dạt bao nhiêu năm, tôi trở lại làng xưa cũng vào một buổi chiều giữa hạ. Tôi xuống xe khách ngoài quốc lộ, rồi đi bộ vào làng. Mọi cái đã khác xưa nhiều lắm. Người trong xóm có xu hướng tràn ra hai bên quốc lộ để ở. Làng quê đang "phố hóa” khá rõ. Trên con đường vào làng, tôi không gặp một người quen nào. Đi ngược chiều với tôi toàn là những thanh, thiếu nhi mới lớn. Ở chúng, từ quần áo, giày dép đến tóc tai… đều phảng phất bóng dáng các diễn viên Hàn Quốc… Thời đại của chúng nó đã khác xa thời đại của chúng tôi. Vào gần đến làng, một ông lão tóc đã bạc trắng, dáng gầy gò từ thửa ruộng sát đường bước lên. Chưa nhận ra ai, nhưng đoán chắc ông ta là người cùng thời đại với mình, nên tôi cất tiếng chào trước: Chào cụ.
- Không dám… chào ông!
Tôi và ông lão chợt khựng
lại, bởi cả hai chúng tôi đều cảm thấy có một điều gì đó ngờ ngợ. Rồi bỗng lão
nói như quát, như dỗi:
- Cụ cái đếch gì, mày bán
xới lâu không về, chẳng còn nhớ ai nữa phỏng???
- Ôi… Đúng là giọng của
"Con ma” ngày xưa đây! Bây giờ thì tôi biết lão là ai rồi.
- Cụ là… Anh Ma hả!!! Mấy
chục năm rồi mà còn thét lác ra phết.
Lão ngoác mồm ra cười, tôi
thấy răng Anh Ma chỉ còn lơ thơ vài chiếc.
- Mày là thằng Dầm chứ gì?
Đồ nhớ dai như đỉa!!!
- Thế bây giờ thành Ông gì
rồi???
- Em vẫn là thằng Dầm
thôi, chứ ông với bà chi!!!
Anh Ma và tôi rẽ vào một
quán nhỏ đầu làng. Mùi rượi nếp từ những chai nút lá chuối tỏa ra thơm ngát. Kỉ
niệm của quá khứ theo dòng chảy của rượu òa ập vây bủa lấy tôi và anh Ma. Sau
cái đêm ma đuổi ấy, anh T và vợ của anh ấy (cái cô gái cười khúc khích sau bụi
dứa…) đã bị mất tên cúng cơm. Tất cả mọi người (cả làng, cả xã) chỉ còn gọi họ
một cái tên duy nhất đó là: Anh Ma, chị Ma, thằng Ma, cái Ma… Còn tôi thì bị
gọi là: Thằng Dầm… nghĩa là sợ quá… tè... cả ra quần ấy mà. Gọi mãi rồi cũng
quen, anh Ma, chị Ma, thằng Dầm… Và câu truyện cười: Ném ma của tôi mọi người
ai cũng thuộc lòng và kể vanh vách, trở thành một phần kỉ niệm về quê hương,
của tất cả những người cùng một thời xưa cũ.
- Thế anh chị được tất cả
mấy con ma con?
- Sáu con vịt giời!!!
Anh Ma chiêu một tợp rượu,
mặt tỏ rõ sự bực bội, thất vọng của cái kẻ chỉ được ngồi… "mâm dưới”, theo
cách nói đểu của cánh đàn ông quê tôi. Thấy thế tôi cũng chọc thêm:
- Thì đúng rồi… ai bảo anh
chị lại chui vào cái miếu của hai con ma nữ để tỏ tình… Thế sáu con vịt ấy đã
bay hết chưa?
- Bay hết rồi… Tao ngu thế
không biết. Cứ cố để kiếm lấy cái gậy… bây giờ mới khốn nạn, chưa đến sáu mươi
mà mày đã gọi tao là cụ… chán bỏ mẹ. Mà làm đếch gì còn cái miếu với bọn ma cây
gạo của mày nữa!
- Sao vậy?- Tôi sửng sốt
hỏi.
- Ủi hết rồi. Người đông,
đất chật. Người chiếm hết chỗ của ma rồi. Chỉ còn tao là cái thây ma sống đây
thôi!
Anh Ma ngừng nói, mặt buồn
như mùa lá rụng. Tôi rót đầy cho anh rồi chúng tôi cạn ly. Thôi anh Ma ơi, đừng
buồn mà làm gì. Thời đại đã sang trang rồi. Mọi cái đã đổi thay. Nhưng chỉ có
một điều chẳng bao giờ thay đổi trong tôi đó là: Cây gạo ở làng Bún vẫn mãi mãi
còn đó, rồi cứ mỗi tháng ba lại bung ra những bông hoa đỏ rực, cháy hoài trong
kỉ niệm tuổi thơ tôi. Và bất kì tôi sống ở đâu trên trái đất này, màu hoa gạo
thắm hồng ấy cứ vẫy gọi tôi nhớ về quê hương mình, một vùng quê nghèo khó của
vùng đất... Rốn đồng chiêm... Sống ngâm da, chết ngâm xương... nhưng luôn lung
linh rực rỡ bẩy sắc cầu vồng suốt một thời thơ dại của tôi. Và trên cây gạo ấy,
nhất định là cứ mỗi chiều muộn, hai mẹ con nhà ma lại hiện lên trên cành cây mà
ru nhau ời ợi. Nhưng không phải ai cũng nghe được tiếng ru của chúng đâu. Bởi
vì: Sơn ăn tùy mặt… Ma bắt tùy người… Như lời U tôi đã nói.
Huế tháng 9/2011
© Tác giả giữ bản quyền.
. Cập
nhật lại ngày 15.7.2014
.
Cập nhật theo nguyên bản của tác giả gởi từ TP.Huế ngày 28.4.2012
Xin Vui Lòng Ghi Rõ nguồn VanDanViet Khi Trích Đăng
Lại.
________________________________________________
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét