Tây Sơn Ai Tư Vãn Truyện - Vũ Đình Ninh
Thứ Bảy, 19 tháng 7, 2014
LỜI TÁC GIẢ: Đó là
những mảnh sáng rơi xuống từ một thiên hà quen thuộc vào giấc mơ tâm thức kết
thành chuỗi sắc nhọn ngấm trong dòng chảy thời gian như bất tận bên bờ hư sự
sống. Tôi đang mơ nghe, đang mơ thấy, đang mơ đón nhận sự róc cào qua từng tế
bào cảm giác và như bật ra từng thanh khúc đoạn trường...
Thông tin
liên hệ: (VanDanVietNet)
Tác giả Vuhnid
Tên
thật Vũ Đình Ninh
Địa chỉ:
528 Âu Cơ Qui Nhơn
Email: vandanviet@gmail.com
_____
Đã xuất bản:
Tây Sơn Ai
tư vãn truyện (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2009)
MỞ
Bon chen làm kiếp con người
Có ai nghĩ đến nghiệp đời trớ trêu
Chữ thân chữ nghiệp duyên nhau
Thân hoa nghiệp bướm thân dâu nghiệp tằm
Xanh rì trong cõi mù tăm
Xôn xao trong cõi thăng trầm đỏ đen
Hoá công dựng một cây đèn
Thân người bóng lửa lan triền sử xanh
***
Từ năm Trịnh Nguyễn phân tranh
10- Vua Lê hư vị Long kinh võ vàng
Cung đình đây! Tiếng quân vương
Cung son đây! Tiếng am tường nho phong
Ngọc Hân công chúa mở lòng
Tuổi lên mười sáu rạng dòng hoàng gia
Soi thân ngời ánh kiều nga
Soi đời phận mỏng như là phù vân
Nằm mơ cầm bảng phong thần
Đọc qua đoạn khúc châu thân bồi hồi
Kiều hoa ánh mắt xa vời
20- Ngó qua vườn thuý bướm ngài nơm nang
Ngẩn người hai chữ đoan trang
Vừng trăng mười sáu sáng tràn màu da
Tấm thân tố nữ mượt mà
Mượt mà dáng dấp lụa là mượt hơn
* **
Rằm giêng ngày hội Vu sơn
Đường xuân cỏ sớm rập rờn nắng xanh
Bóng nga dõi mắt kinh thành
Suối trong núi biếc nghiêng đành cả hai
Gió hương ngát bóng mây trời
Nhụy hoa lan tiếc lạc mùi thanh ngâm
Một vùng sơn thuỷ hoà âm
Nguyên tiêu hối hả thi cầm bườm trương
Nàng cười mở nghiệp văn chương
Môi thơ khẻ động bàng hoàng cõi nhân
Âm giai muôn nẻo quây quần
Tiếng trầm cá lượn tiếng ngân nhạn về
Tiếng khàn tiếng đục sương che
Tiếng bi tiếng não theo về bên ai
* **
Hội xuân ngày vút cánh bay
40- Hồi cung hồn ướm sắc ngoài khôn vơi
Ngoái trông én lượn bên trời
Nhìn theo con nước hoa trôi nhạt nhoà
Nhìn theo man mác yên ba
Dưới làn mây bạc là là sắc thanh
”Hồn mơ lạc giữa tinh anh
Buông xuôi phương hướng du hành bến xuân
Mơ màng thấy một vương nhân
Chống đao vẩy bút chúng quần xếp chen
Giọng đồng sang sảng vang lên
50- Tim nàng chưng đã nghe rền nỗi ngây”
Bóng chiều trải thẩm non Tây
Vừng trăng chói mộng chân tay vụng về
Ánh vàng chạm mắt con khê
Xua làn sóng bạc bốn bề thêm thanh
Mây ngàn quyến luyến vây quanh
Chùa xa dần khuất sau gành rẽ ngang
* **
Chơ vơ miếu cổ bên đàng
Lá trăng lấp ló đốm vàng đốm xanh
Chạnh lòng trước cảnh u minh
60- Bệ hương mục rữa cỏ tranh nhập nhoà
Bàng hoàng mắt lạc phương xa
"Ai như người ấy rõ là nam nhi”
Ghé tai trìu mến thầm thì:
"Muôn dân lầm thán nói gì lời oanh
Cho dù nghiệp đế đang manh
Lòng ta mong được giữ cành thiên hương
Cùng dân đã một con đường
Dẹp bầy lang sói tìm phương giúp đời
Giờ còn giặc giả khắp nơi
70- Gửi câu ước hẹn tạc lời mai sau!”
* **
Đường trăng trắng lạnh nhuốm màu
Dòng mơ sủng ướt ánh sầu lung linh
"Trắng đen ngờ ngợ nỗi tình
Thực hư nhoà nỗi bồng bình mù xa
Chữ duyên chăng đã mặn mà
Chữ tình ai đã hẹn là mai sau”
Bỗng dưng trời rớt giọt châu
Sầm u lối trước dàu dàu cỏ hoa
Vùng đen chậm bước trăng tà
80- ”Len trong ánh chớp mượt mà lời thăm
Ngọt ngào ủ kín trong tâm
Má nàng rựng đỏ như dầm châu sa
Đã tin lòng nguyện rõ mà
Đàn bà – dạ trẻ có là nổi nông?
Từ xưa trời đất dày công
Xuôi chi nguyệt lão sợi hồng đem pha
Gom hương điểm nét thân hoa
Đến mùa nhan sắc dâng qua nhà chồng
Ngẫm bao kiếp phận má hồng
90- Trăm năm son sắt tơ đồng cho ai
Tiết trinh rớt giọt u hoài
Thanh cao phảng phất một vài khói hương
Nơi đâu là chỗ thiên đường
May ra nơi dưới suối vàng sẵn cho
Một lời hẹn ước trong mơ
Mai sau có được chung mồ đôi ta
Nỗi đau nào để gọi là
Nửa non bông cúc nửa già hoa cau
Nửa xanh tóc nửa bạc đầu
100- Nửa thi phú nửa gam mầu hoá thân
Nửa lơ ngơ nửa tần ngần
Nửa tươi tỉnh nửa bần thần cõi xa
Đoạn trường kiếp phận kiều hoa
Để xuôi con nước phù sa sông dài
Đỏ đen theo dọc canh bài
Rủi may đọng giọt ai hoài người xưa
Tự nghìn xưa bỗng như vừa
Nghìn năm sau với đời xưa có là?
Có còn sầu muộn nét hoa
110- Còn chăng kiếp phận đàn bà mãi đeo!
Nhìn qua dòng chảy soi theo
Bóng mây thấp thoáng cánh bèo ủ ê
Nhìn đâu cũng thấy nặng nề
Thôi thì ta cứ nhìn về thân ta
Hồng thân dĩ nghiệp phù hoa
Trăm năm hết nghiệp có là tinh anh
Có chăng còn lại chút tình
Còn trong hoài niệm tâm linh bến bờ
Còn trong lời nhạc ý thơ
120- Còn trong được mất cuộc cờ thẳng ngay
Còn trong chồi biếc cỏ cây
Giữa tàng xao xác ngửa say giấc chiều”
Ngẩn người trước cảnh đìu hiu
Mắt theo dòng chảy liu riu vô tình
Nàng thầm nhẩm mấy câu kinh
”Giọt rơi trên nước tâm thành trôi xa
Giọt rơi khắp cõi người ta
Giọt chìm giọt nổi giọt là chị em
Giọt nào thanh sắc nhìn xem
130- Giọt nào đỏ thắm dịu mềm quanh môi
Người lâng sương khói bồi hồi
Trăng tan thành đá núi đồi ứa thơ”
Chập chờn đang giữa tĩnh mê
Kiệu hoa khua động tiếng nghe rõ dần
Nhạt nhoà bóng dáng vương nhân
Cung đình trước mặt mấy lần thềm băng
Chìa tay níu lại vùng trăng
Non tây đã điểm thùng thằng trống canh
* **
Chương 2
Quay về phủ chúa Đàng Trong
140- Gian thần Quốc phó Phúc Loan lộng quyền
Ngang nhiên hãm hại người hiền
Lương dân ca thán xóm giềng đớn đau
Lập mưu chém Ý Đức Hầu
Tróc truy Ngô Mãnh rượt sâu vào rừng
Cả nhà Đô Mãnh –Thống quân
Duy còn đứa cháu tuổi đang hơn mười
Tay ôm Văn Sở sụt sùi
Xót xa ngửa mặt ngậm ngùi ông than:
”nghiệp đời sao lắm trái ngang
150- xả thân bổn soái trung can hết lòng
theo chân phò chúa chỉ mong
dân an quốc thái, muỗi mòng thế sao!
140- Gian thần Quốc phó Phúc Loan lộng quyền
Ngang nhiên hãm hại người hiền
Lương dân ca thán xóm giềng đớn đau
Lập mưu chém Ý Đức Hầu
Tróc truy Ngô Mãnh rượt sâu vào rừng
Cả nhà Đô Mãnh –Thống quân
Duy còn đứa cháu tuổi đang hơn mười
Tay ôm Văn Sở sụt sùi
Xót xa ngửa mặt ngậm ngùi ông than:
”nghiệp đời sao lắm trái ngang
150- xả thân bổn soái trung can hết lòng
theo chân phò chúa chỉ mong
dân an quốc thái, muỗi mòng thế sao!
nhà ta lai láng máu đào
biển sâu có thấy trời cao có tường?”
Còn bao nhiêu cảnh đau thương
Họ hàng bà Sáu pháp trường phanh thây
Chỉ vì cái tội chửi lây
"Gọi quan Quốc phó thằng nầy thằng kia”
Nghèo không hột cháo dính thìa
160- Lấy đâu ra lúa, nộp về quan trên
Dâu bà, chúng nhốt qua đêm
Dày vò thân xác rũ mềm cánh hoa
Con trai lính thú phương xa
Căm thù bà rủa quan ngoa huyện đường
"Hởi thằng Tần Cối họ Trương!…
Sao mày không sớm phình chương cho rồi
Dân đen tao chán sống rồi
Miếng ăn không có chỗ ngơi không còn
chồng xa vợ, mẹ mất con… ”
170- Thành ra cả họ chết oan giữa trời ”
Cảnh này lập lại nhiều nơi
Nhà nho, kẻ sĩ trách đời nhiễu nhương
Âm thầm trước những tai ương
Gia đình Cử Hiến tìm đường lánh thân
Dấn theo kiếp nạn phong trần
Nửa đêm dắt vợ con lần hướng Nam
Vạch dòng lau lách mù tăm
Thuê thuyền mướn sỏng dãi dầm tìm phương:
”Ngoái trông từng khúc đoạn trường
180- Chén cơm bát nước dặm đường hiểm nguy
Nhìn con hai đứa thầm thì
Nhìn người vợ yếu nhu mì đắng cay
Nhìn lên trắng lạnh màu mây
Nhìn xa thăm thẳm dặm dày bước mong
Càng đi càng thắt sợi lòng
Càng lo càng cháy ruột gan nơi về
Khắp người Trương Hiến như tê
Hai tay vuốt mặt dầm dề giọt châu”
* **
Tin đồn An Thái, vùng sâu
190- Hướng Tây sơn thượng ngút ngời ánh sao
Có ông biện Nhạc anh hào
Chiêu hiền, đãi sĩ kém nào Tống Giang
Giúp người bước ngặt vận tàn
Lén nghề trầu-muối món hàng đổi trao
Nuôi em Huệ, Lữ khác nào
Thay cha giúp mẹ dạy trau đạo đời
Tìm mời thầy võ nhiều nơi
Cùng bao nho sĩ thất thời nhập gia
Có nhiều hào kiệt người Hoa
200- Trốn triều Thanh đến ẩn qua hiểm nghèo
Chân truyền kiếm pháp côn đao
Binh thư kế chước lược thao trận đồ
Thiên tư vốn sẵn trời cho
Chàng trai Nguyễn Huệ cơ đồ sáng trưng
Tôn sư người Hán lòng mừng
Thì thầm với Nhạc:” Anh hùng tương lai!
đất này gom tụ anh tài
ông nên khởi sự dựng xây nghiệp trời!”
Lòng mừng Nhạc ngó cơ ngơi:
210- Mày râu chí lớn vài mươi anh hào
”Là Vũ Văn Nhậm song đao
Một tay giết đám cường hào hiếp dân
Xả thân vào chỗ bất công
Lấy nhà bọn ác rắc sân xóm nghèo
Tay không vật ngã hùm beo
Trí hùng Hàn tín phải e người này”
”Là Nguyễn Văn Tuyết võ say
nhập thần xuất quĩ lượn bay soãi trườn
Đã từng cướp ngựa Võ Vương
220- Rượu thơ sơn thuỷ yên cương giang hồ”
”Là Vũ Văn Dũng binh cơ
Thập bát ban võ như cờ trong tay
Quan Công nhìn xuống chau mày
Có duyên nợ với nơi này dừng chân ”
”Là Phan dũng sĩ – Văn Lân
Sức xoay tảng đá nghìn cân như đùa
Lũ quan tham chỉ biết thua
Vừa nghe chúng đã lấy bùa ếm tên”
”Là Võ Đình Tú trường côn
230- Thiếu Lâm ẩn náu hạ sơn vẫy vùng
Dọc ngang hồ thỉ ung dung
Thấy điều bất nghĩa lửa hừng chí trai”
”Là Trần Quang Diệu anh tài
Hổ to, anh khẻ vươn vai vật nhào
Đường rừng nhẹ bước tiêu dao
Thiên văn, địa lý -nhìn sao nắm thời”
”Là Bùi Thị Xuân chúa voi
Một tay cung kiếm khó người sánh theo
Thích vui đỉnh núi lưng đèo
240- Mộng xoay chí nữ về neo bến hiền
Theo thầy Ngô Mãnh bao niên
Luyện rèn võ nghệ chờ duyên đồng hành”
”Là Ngô Văn Sở dòng quan
Cháu ngài Đô thống trốn thành ẩn cư
Ngày đêm thương giáo binh thư
Hầu mong gặp hội rồng mây giúp đời”
Cùng bao danh sĩ thất thời
Vây quanh Nhạc, Huệ, Lữ cười giòn tan
biển sâu có thấy trời cao có tường?”
Còn bao nhiêu cảnh đau thương
Họ hàng bà Sáu pháp trường phanh thây
Chỉ vì cái tội chửi lây
"Gọi quan Quốc phó thằng nầy thằng kia”
Nghèo không hột cháo dính thìa
160- Lấy đâu ra lúa, nộp về quan trên
Dâu bà, chúng nhốt qua đêm
Dày vò thân xác rũ mềm cánh hoa
Con trai lính thú phương xa
Căm thù bà rủa quan ngoa huyện đường
"Hởi thằng Tần Cối họ Trương!…
Sao mày không sớm phình chương cho rồi
Dân đen tao chán sống rồi
Miếng ăn không có chỗ ngơi không còn
chồng xa vợ, mẹ mất con… ”
170- Thành ra cả họ chết oan giữa trời ”
Cảnh này lập lại nhiều nơi
Nhà nho, kẻ sĩ trách đời nhiễu nhương
Âm thầm trước những tai ương
Gia đình Cử Hiến tìm đường lánh thân
Dấn theo kiếp nạn phong trần
Nửa đêm dắt vợ con lần hướng Nam
Vạch dòng lau lách mù tăm
Thuê thuyền mướn sỏng dãi dầm tìm phương:
”Ngoái trông từng khúc đoạn trường
180- Chén cơm bát nước dặm đường hiểm nguy
Nhìn con hai đứa thầm thì
Nhìn người vợ yếu nhu mì đắng cay
Nhìn lên trắng lạnh màu mây
Nhìn xa thăm thẳm dặm dày bước mong
Càng đi càng thắt sợi lòng
Càng lo càng cháy ruột gan nơi về
Khắp người Trương Hiến như tê
Hai tay vuốt mặt dầm dề giọt châu”
* **
Tin đồn An Thái, vùng sâu
190- Hướng Tây sơn thượng ngút ngời ánh sao
Có ông biện Nhạc anh hào
Chiêu hiền, đãi sĩ kém nào Tống Giang
Giúp người bước ngặt vận tàn
Lén nghề trầu-muối món hàng đổi trao
Nuôi em Huệ, Lữ khác nào
Thay cha giúp mẹ dạy trau đạo đời
Tìm mời thầy võ nhiều nơi
Cùng bao nho sĩ thất thời nhập gia
Có nhiều hào kiệt người Hoa
200- Trốn triều Thanh đến ẩn qua hiểm nghèo
Chân truyền kiếm pháp côn đao
Binh thư kế chước lược thao trận đồ
Thiên tư vốn sẵn trời cho
Chàng trai Nguyễn Huệ cơ đồ sáng trưng
Tôn sư người Hán lòng mừng
Thì thầm với Nhạc:” Anh hùng tương lai!
đất này gom tụ anh tài
ông nên khởi sự dựng xây nghiệp trời!”
Lòng mừng Nhạc ngó cơ ngơi:
210- Mày râu chí lớn vài mươi anh hào
”Là Vũ Văn Nhậm song đao
Một tay giết đám cường hào hiếp dân
Xả thân vào chỗ bất công
Lấy nhà bọn ác rắc sân xóm nghèo
Tay không vật ngã hùm beo
Trí hùng Hàn tín phải e người này”
”Là Nguyễn Văn Tuyết võ say
nhập thần xuất quĩ lượn bay soãi trườn
Đã từng cướp ngựa Võ Vương
220- Rượu thơ sơn thuỷ yên cương giang hồ”
”Là Vũ Văn Dũng binh cơ
Thập bát ban võ như cờ trong tay
Quan Công nhìn xuống chau mày
Có duyên nợ với nơi này dừng chân ”
”Là Phan dũng sĩ – Văn Lân
Sức xoay tảng đá nghìn cân như đùa
Lũ quan tham chỉ biết thua
Vừa nghe chúng đã lấy bùa ếm tên”
”Là Võ Đình Tú trường côn
230- Thiếu Lâm ẩn náu hạ sơn vẫy vùng
Dọc ngang hồ thỉ ung dung
Thấy điều bất nghĩa lửa hừng chí trai”
”Là Trần Quang Diệu anh tài
Hổ to, anh khẻ vươn vai vật nhào
Đường rừng nhẹ bước tiêu dao
Thiên văn, địa lý -nhìn sao nắm thời”
”Là Bùi Thị Xuân chúa voi
Một tay cung kiếm khó người sánh theo
Thích vui đỉnh núi lưng đèo
240- Mộng xoay chí nữ về neo bến hiền
Theo thầy Ngô Mãnh bao niên
Luyện rèn võ nghệ chờ duyên đồng hành”
”Là Ngô Văn Sở dòng quan
Cháu ngài Đô thống trốn thành ẩn cư
Ngày đêm thương giáo binh thư
Hầu mong gặp hội rồng mây giúp đời”
Cùng bao danh sĩ thất thời
Vây quanh Nhạc, Huệ, Lữ cười giòn tan
* **
Có nàng tên gọi Hoài Sơn
250- Theo cha lánh nạn dừng chơn nơi này
Cha nàng được Nhạc bái Thầy
Mở trường dựng trại phía tây Kiên thành
Ở đây sơn thuỷ hoà thanh
Suối trong, hồ lặng, rừng xanh, đất hiền
Từ nhà biện Nhạc đi lên
Qua sông thẳng hướng nam triền con khe
Hai bên hoa đá sập sè
Nước trong óng ả nắng nhè nhẹ trôi
Vô tình mấy đoá hoa phơi
260- Ngẩn ngơ màu lạ bướm lơi lả tìm
Trên vòm cây rộn tiếng chim
Cúc cu bìm bịp…lim dim gật gù
Một con hổ nhỏ ưu tư
Cúi nhìn bóng nước gầm gừ nhón chân
Vào sâu con suối rộng hơn
Xoè to một khoảnh xa trông như hồ
Giữa dòng đá trải nước phô
Chép vàng niên trắng lượn lờ rỉa mây
Bức tranh sơn thuỷ như bày
270- Hầm Hô tên gọi nơi này từ xưa
Cả nhà Thầy Hiến như vừa
Sau cơn ác mộng được đưa lại đời
Bốn người quản một cơ ngơi
Một làm trường học ba nơi làm vườn
Sinh đồ dăm kẻ thập phương
Học cùng Lữ, Huệ, Lê Lương- anh nàng
Ngày qua, tháng lại, năm dồn
Lớn dần kí ức vui buồn Huệ- Sơn
Một ngày sau đó năm năm
280- Hai tâm hồn đã thì thầm phận duyên
Dường như họ đã ước nguyền
Dường như hồn mộng vào miền đắm say
Lớn lên trong bóng bèo mây
Mà thân mườn mượt sáng đầy vóc trăng
Mắt nàng đôi mắt long lanh
Đang soi thấu phận mỏng manh đời mình
Bao năm cùng Huệ sử kinh
Bên cha, thầy Hiến trải tình nước non
Lòng theo ngày tháng xanh hơn
290- Nguồn Tây uất cuộn sông Kôn lũ về
Nước tràn cuốn đứt cọc đê
Cành khô củi mục dạt về biển xa
Giữa trời rạng ánh hiền hoà
Nhìn qua phương ấy nhạt nhoà chòm đông
* **
Một chiều, dạo ở đầu sông
Nhạc cùng thầy Hán dò trông địa hình
Theo lời của bậc chiêm tinh:
”Vùng Tây sơn thượng ẩn hình ngoạ long
Nơi đây thanh khí rất hồng
300- Nên đem hài cốt cụ ông dời về
dọc theo tảng đá trên khe
đó là long mạch tràn trề nghiệp vương ”
Nghe qua lòng Nhạc reo mừng
Cùng em Huệ, Lữ men từng dấu xưa
Xong xuôi, đánh trống dựng cờ
Lòng ông náo nức biến mơ thành đời
Được tin dân chúng nhiều nơi
Tựu về gia nhập mưu cầu diệt gian
Cờ đào áo vải miên man
310- Bày mưu hiến kế bỏ quan biện đồn
Lấy tiền thu thuế nhập công
Tìm mua sắt thép rèn gươm giáo chờ
* **
Một đêm nghĩa sĩ bất ngờ
Giết tên bá hộ tế cờ giữa dân
Bắt hào, lý – bọn bất nhân
Vào kho lấy thóc đem phân người nghèo
Lòng người lại sục tiếng reo
Từ Tây sơn thượng vượt đèo An khê
Lại thêm hai toán quân tề
320- Người Tàu gốc Hán theo về nhập binh
”Xưa là thuộc tướng nhà Minh
Lý Tài – hải soái, Tập Đình – thuỷ đô
Triều Thanh truy quét xa bờ
Nên thân hai tướng dật dờ biển đông
Theo bên một số tuỳ tùng
Tính ra chừng được gần ngàn tinh binh”
Nhạc mừng mở tiệc linh đình
Mời Thung- mưu sĩ khui bình rượu ngon:
”cánh quân phía biển giao ông
330- cùng hai tướng Lý, Tập trông mặt ngoài
chờ khi mở rộng vòng đai
ta trên đánh xuống, ông ngoài đánh vô
giáng vào hai mũi bất ngờ
phen này trấn phủ vắt giò lên vai”
Quay sang Nhạc gợi Lý Tài
Dò thêm tông tích hai ngài tướng tân
”Tập Đình xách nổi nghìn cân
Lý Tài địch nổi muôn quân trận tiền”
Mỗi ông bưng hũ rượu nguyên
340- Một hơi nốc sạch ngửa nghiêng cười tròn
* **
Trăng vàng gối mặt đầu non
Nhìn thầy trò Huệ hàn ôn tâm tình
Lời Thầy trầm mặc hiền minh
Lấy câu trung nghiã diễn trình thế nhân:
” rằng ta một dạ trung can
sa cơ bởi lão Phúc Loan –gian thần
chờ khi giết bọn bất nhân
lòng ta với Chúa khó phần đổi thay”
Nghe qua Huệ cố tỏ bày:
350- "Chữ trung nghĩa đến đời nay vẫn nhiều
Thời Lê trước đến Lê sau
trải qua bao bận thay triều đổi ngôi
bây giờ nghiệp Nguyễn tàn rồi
thôi thì thầy chớ bồi hồi thêm đau”
Thầy đem truyện sách bên Tàu
”Nhắc qua Từ Hải một thời hùng anh
nhưng rồi cơ nghiệp không thành
nên thân chết đứng giữa lằn đạn tên ”
Huệ cười:” bởi nghiệp mỹ nhân
360- nên Từ nát thịt tan thân anh hào
nếu không cơ nghiệp càng cao
dân an nước thái sử nào chẳng ghi”
Lời trao tiếng gửi thầm thì
Tàng trăng đã cúi xám chì bóng đêm
Nghe đâu tiếng thở thật mềm
Nghe đâu đó khẻ hương trầm quen hơi
* **
Việc quân bàn định xong rồi
Chia làm hai cánh đúng nơi phục chờ
Mục tiêu tập kích bất ngờ
370- Cánh quân Nguyễn Nhạc trương cờ tiên phong
Lấy khổ nhục kế tiến công
Cũi to nhốt Nhạc trói gông khiêng vào
Nói rằng:” đọc được tin rao
Nay xin lãnh thưởng mong vào báo quan!”
Mười tên xốc xếch áo quần
Mặt mày nhem nhuốc tần ngần chờ tin
Bước ra tuần phủ – Khắc Tuyên
Nheo nheo đôi mắt nhìn xuyên cũi tù :
”đúng là thằng Biện đây ư!
380- Dám suồng tiền thuế rồi u vào rừng
Phen này tao chặt đôi chân
Khoét hai con mắt dằn dân Kiên thành!”
Nói xong giục mở cửa nhanh
Mười tên lem luốc nhọc nhằn khiêng vô
Khắc Tuyên đem rượu một vò
Nói là” ban thưởng! vàng chờ nhận sau!”
Nghe tin dân chúng ùa vào
Chen theo, quân Nhạc ào ào nhảy vô
Khắc Tuyên, xanh mặt, co giò
390- Hô quân nổi trống, kéo cờ động binh
Trống rền lửa trận thầm thình
Đội quân Thung, Lý, Tập Đình tràn qua
Phía trong quân Nhạc đánh ra
Giáp công hai mủi chim sa cá trồi
Khắc Tuyên thừa lúc tối trời
Dắt theo gia quyến một hơi tẩu đào
Quân triều một số chết đao
Số bị hoả hổ thét gào kêu la
Số thì chui trốn trong nhà
400- Phần đông quăng giáo cùng ra qui hàng
Trận đầu thắng lớn vẻ vang
Phủ Qui nhơn điểm một trang sử hồng
Nghiã binh các nẻo xuôi dòng
Đánh qua Tuy viễn, đánh vòng Phù ly
Một đêm thu gọn triều kỳ
Máu người tanh nặc đường đi lối mòn
Nhìn bà mẹ ôm xác con
Nhìn người vợ trẻ nỉ non khóc chồng
Lữ nghe từng nỗi mênh mông
410- Mà trong từng nỗi chất chồng lên nhau
Từ trong từng nỗi ran đau
Trong từng sớ thịt nặc màu máu tanh
”Phải là di sản chiến tranh
Hay di sản đoạn trường thanh phải là”
* **
Mùa xuân một bảy bảy ba
Nghĩa binh Nhạc chiếm phủ nhà Qui nhơn
”Mười chàng khiêng cũi lem nhem
biệt danh Thập hổ nhóm tên thành đồng
Văn Tuyết, Văn Sở, Xuân Phong
420- Đình Tú, Văn Dũng, Văn Long, Hai Dần
Xuân Bảo, Văn Nhậm, Văn Lân
Đem theo côn gỗ giấu trong cũi tù
Bất ngờ phá cũi đánh nhầu
Lính Tuyên đổ máu dập đầu tháo lui”
Nói ra ai nấy phì cười
Ngẫm đi ngẫm lại muôn người đều kinh
* **
Chương 3
Lăn tăn sóng gợn sông tình
Chàng trai Nguyễn Huệ tẩm quỳnh trên đao
Vươn vai rạng mặt anh hào
430- Côn quyền kinh sử lược thao gồm tài
Quân trường cùng Nhậm đăng cai
Ngày đêm huấn luyện miệt mài tinh binh
Núi rừng voi ngựa rầm rình
Giáo gươm lẻng kẻng bóng hình xôn xao
Từng ngày quân số dồi dào
Quân cơ ứng biến càng cao trí hùng
Cạnh thầy Trương Hiến sư hưng
Vợ chồng Quang Diệu- Thị Xuân cận kề
Khắp vùng An thái , Xuân huề
440- Cờ đào phấp phới đường quê rộn ràng
Lòng trời rọi xuống ánh vàng
Việc quân đến lúc sẵn sàng xuất chinh
Như nghe ai gọi tên mình
Như nhìn ngọn lửa rung rinh quan hà
Điều gì thôi thúc trong ta?
”Chiến công hay máu hay là niềm riêng
Hay vì quốc thái dân yên?
Hay chăng tất cả hiển nhiên nghiệp đời!”
Bỗng nghe lệnh khẩn triệu vời:
450- ”Đem quân tiếp ứng mặt ngoài Bồng sơn!
Binh triều, ồ ạt như tuôn
dẫn đầu danh tướng Thất Hương vang lừng
cùng con Đính, Chính oai hùng
trương cờ, hạ trại bên dòng Lại Giang
bày trò chiêu dụ gửi sang
Huệ xem đừng để hoang mang quân tình!”
Cùng Lân, Diệu ngắm địa hình
Thăm dò thời tiết, Huệ liền quyết ngay:
”ngàn binh, theo Diệu hướng tây,
460- ngăn dòng sông Lại bằng cây phục chờ
khi nghe lửa hiệu, phá bờ!
mượn giòng thác lũ bất ngờ thay gươm
xong xuống phục ở mé sông
những tên sống sót trói gông dẫn về!
tốc hành cho sớm bờ đê!
hoàn thành đâu đấy, báo về khẩn trương!
còn ta lãnh ấn tiên phuông
ba ngàn binh mã thẳng đường hướng sông
tinh binh hoả hổ dự phòng
470- chờ khi sát địch hỏa công bất ngờ!”
Quân triều đang lúc lơ mơ
Bỗng nghe trống lệnh trương cờ xuất binh
Dẫn đầu Tướng Đính ngang nghinh
Đón côn Đình Tú, giật mình tứ chi
Múa may vài hiệp, ạch ì
Trường côn sấm chớp tiễn đi chầu trời
Hàng ngàn binh mã chơi vơi
Bị hoả hổ đốt kêu trời tháo lui
Cánh quân Thất Chính đành lùi
480- Vượt sông, ngước mặt ngậm ngùi nhìn cha
Giữa giòng chớp lửa sáng loà
Nước nguồn như thác cuốn qua đầu người
Thất Hương khoảnh khắc rụng rời
Nhìn con- hai tướng thân phơi hai đường
Thằng anh lửa đốt thành than
Thằng em nước tiễn mơ màng cuối sông
Tiếng rên kêu khóc nghẽn giòng
Tiếng gươm tiếng súng rít gầm khói mây
Tiếng hô tiếng thét cuồng say
490- Bao nhiêu thứ tiếng lượn bay dày trời
Tướng Hương lòng đứt rạc rời
Tay gươm mặt ngửa nhìn trời thầm than:
”cả đời chinh chiến bao phen
binh thư kế sách dễ hèn một khi
chẳng hay địch dụng kiểu gì?
mà trong chớp mắt ngút nghì lưới giăng!
cũng từ thằng giặc Phúc Loan
mới ra cơ nghiệp tan hoang Nguyễn triều!”
Than xong hồn phách tiêu diêu
500- Hơn hai vạn lính máu điều nghịt sông
Số sống sót dạt ra đồng
Luồn qua lau lách tìm đường lánh thân
Ước chừng trên dưới năm trăm
Bơ phờ gươm giáo dãi dầm đau thương
Phật phờ kéo chạy qua truông
Bị quân mai phục chắn đường bủa vây
Cùng nhau thả giáo buông tay
Qui hàng để được toàn thây về nhà
Đội quân mai phục ấy là
510- Tập Đình cùng với Lý Tài – Nhạc giao.
Hai ngài không chút xuyến xao
Lệnh đám thuộc hạ chém ào một hơi
Ôi thôi! Máu vọt, đầu rơi!
Hơn năm trăm lính động trời thét kêu
Máu thây ứa nghẹt khúc đèo
Khí tanh rờn rợn rít theo tiếng cười
Xông lên ngùn ngụt đất trời
Lùng khừng hướng gió không lời chát cay
Hả hê một lượt sướng tay
520- Kéo nhau về trại bạch bày chiến công
Huệ ra tới đèo Thạch Tân
Nhìn thây quân Nguyễn chất chồng lên nhau
Có tên còn sống ngóc đầu:
"Cầu xin cứu mạng ơn sâu Hải Hà!”
Động lòng, Huệ lệnh kiểm tra:
"Xem ai còn thở, nhanh mà cứu ngay!”
Nghĩa binh vội vả xăn tay
Lôi ra trong đống, tính rày hơn mươi
Liền cho băng bó từng người
530- Tên quân cảm kích buộc lời nói ra:
"Nếu như sớm gặp Hải Hà
thì bao sinh mạng đâu ra nỗi này!
chúng tôi thả giáo, buông tay
xin hàng mà phải thác rày, thảm ghê!”
"- Giận thay cho lũ quân tề!
Hàng quân, sao dám u mê giết bừa?”
Hét xong, lòng Huệ như bưa
Sau lưng Nguyễn Nhạc cũng vừa đến nơi
Anh em bàn bạc một hồi
540- Nhạc lơ việc ấy mượn lời khuyên em:
"Lúc này ta rất cần quân
nếu đem ra xử việc càng rối thêm
đám quân người Hán chông chênh
ai cai quản chúng? Thôi nên làm hoà!
Việc cần kíp nhất đó là:
đóng quân, hạ trại, vạch ra chương trình
bên ta còn quá ít binh
lòng người còn lắm bồng bềnh nỗi lo
qua sông thì phải luỵ đò
550- Thôi vì cái lợi binh cơ hãy cùng!
Có nàng tên gọi Hoài Sơn
250- Theo cha lánh nạn dừng chơn nơi này
Cha nàng được Nhạc bái Thầy
Mở trường dựng trại phía tây Kiên thành
Ở đây sơn thuỷ hoà thanh
Suối trong, hồ lặng, rừng xanh, đất hiền
Từ nhà biện Nhạc đi lên
Qua sông thẳng hướng nam triền con khe
Hai bên hoa đá sập sè
Nước trong óng ả nắng nhè nhẹ trôi
Vô tình mấy đoá hoa phơi
260- Ngẩn ngơ màu lạ bướm lơi lả tìm
Trên vòm cây rộn tiếng chim
Cúc cu bìm bịp…lim dim gật gù
Một con hổ nhỏ ưu tư
Cúi nhìn bóng nước gầm gừ nhón chân
Vào sâu con suối rộng hơn
Xoè to một khoảnh xa trông như hồ
Giữa dòng đá trải nước phô
Chép vàng niên trắng lượn lờ rỉa mây
Bức tranh sơn thuỷ như bày
270- Hầm Hô tên gọi nơi này từ xưa
Cả nhà Thầy Hiến như vừa
Sau cơn ác mộng được đưa lại đời
Bốn người quản một cơ ngơi
Một làm trường học ba nơi làm vườn
Sinh đồ dăm kẻ thập phương
Học cùng Lữ, Huệ, Lê Lương- anh nàng
Ngày qua, tháng lại, năm dồn
Lớn dần kí ức vui buồn Huệ- Sơn
Một ngày sau đó năm năm
280- Hai tâm hồn đã thì thầm phận duyên
Dường như họ đã ước nguyền
Dường như hồn mộng vào miền đắm say
Lớn lên trong bóng bèo mây
Mà thân mườn mượt sáng đầy vóc trăng
Mắt nàng đôi mắt long lanh
Đang soi thấu phận mỏng manh đời mình
Bao năm cùng Huệ sử kinh
Bên cha, thầy Hiến trải tình nước non
Lòng theo ngày tháng xanh hơn
290- Nguồn Tây uất cuộn sông Kôn lũ về
Nước tràn cuốn đứt cọc đê
Cành khô củi mục dạt về biển xa
Giữa trời rạng ánh hiền hoà
Nhìn qua phương ấy nhạt nhoà chòm đông
* **
Một chiều, dạo ở đầu sông
Nhạc cùng thầy Hán dò trông địa hình
Theo lời của bậc chiêm tinh:
”Vùng Tây sơn thượng ẩn hình ngoạ long
Nơi đây thanh khí rất hồng
300- Nên đem hài cốt cụ ông dời về
dọc theo tảng đá trên khe
đó là long mạch tràn trề nghiệp vương ”
Nghe qua lòng Nhạc reo mừng
Cùng em Huệ, Lữ men từng dấu xưa
Xong xuôi, đánh trống dựng cờ
Lòng ông náo nức biến mơ thành đời
Được tin dân chúng nhiều nơi
Tựu về gia nhập mưu cầu diệt gian
Cờ đào áo vải miên man
310- Bày mưu hiến kế bỏ quan biện đồn
Lấy tiền thu thuế nhập công
Tìm mua sắt thép rèn gươm giáo chờ
* **
Một đêm nghĩa sĩ bất ngờ
Giết tên bá hộ tế cờ giữa dân
Bắt hào, lý – bọn bất nhân
Vào kho lấy thóc đem phân người nghèo
Lòng người lại sục tiếng reo
Từ Tây sơn thượng vượt đèo An khê
Lại thêm hai toán quân tề
320- Người Tàu gốc Hán theo về nhập binh
”Xưa là thuộc tướng nhà Minh
Lý Tài – hải soái, Tập Đình – thuỷ đô
Triều Thanh truy quét xa bờ
Nên thân hai tướng dật dờ biển đông
Theo bên một số tuỳ tùng
Tính ra chừng được gần ngàn tinh binh”
Nhạc mừng mở tiệc linh đình
Mời Thung- mưu sĩ khui bình rượu ngon:
”cánh quân phía biển giao ông
330- cùng hai tướng Lý, Tập trông mặt ngoài
chờ khi mở rộng vòng đai
ta trên đánh xuống, ông ngoài đánh vô
giáng vào hai mũi bất ngờ
phen này trấn phủ vắt giò lên vai”
Quay sang Nhạc gợi Lý Tài
Dò thêm tông tích hai ngài tướng tân
”Tập Đình xách nổi nghìn cân
Lý Tài địch nổi muôn quân trận tiền”
Mỗi ông bưng hũ rượu nguyên
340- Một hơi nốc sạch ngửa nghiêng cười tròn
* **
Trăng vàng gối mặt đầu non
Nhìn thầy trò Huệ hàn ôn tâm tình
Lời Thầy trầm mặc hiền minh
Lấy câu trung nghiã diễn trình thế nhân:
” rằng ta một dạ trung can
sa cơ bởi lão Phúc Loan –gian thần
chờ khi giết bọn bất nhân
lòng ta với Chúa khó phần đổi thay”
Nghe qua Huệ cố tỏ bày:
350- "Chữ trung nghĩa đến đời nay vẫn nhiều
Thời Lê trước đến Lê sau
trải qua bao bận thay triều đổi ngôi
bây giờ nghiệp Nguyễn tàn rồi
thôi thì thầy chớ bồi hồi thêm đau”
Thầy đem truyện sách bên Tàu
”Nhắc qua Từ Hải một thời hùng anh
nhưng rồi cơ nghiệp không thành
nên thân chết đứng giữa lằn đạn tên ”
Huệ cười:” bởi nghiệp mỹ nhân
360- nên Từ nát thịt tan thân anh hào
nếu không cơ nghiệp càng cao
dân an nước thái sử nào chẳng ghi”
Lời trao tiếng gửi thầm thì
Tàng trăng đã cúi xám chì bóng đêm
Nghe đâu tiếng thở thật mềm
Nghe đâu đó khẻ hương trầm quen hơi
* **
Việc quân bàn định xong rồi
Chia làm hai cánh đúng nơi phục chờ
Mục tiêu tập kích bất ngờ
370- Cánh quân Nguyễn Nhạc trương cờ tiên phong
Lấy khổ nhục kế tiến công
Cũi to nhốt Nhạc trói gông khiêng vào
Nói rằng:” đọc được tin rao
Nay xin lãnh thưởng mong vào báo quan!”
Mười tên xốc xếch áo quần
Mặt mày nhem nhuốc tần ngần chờ tin
Bước ra tuần phủ – Khắc Tuyên
Nheo nheo đôi mắt nhìn xuyên cũi tù :
”đúng là thằng Biện đây ư!
380- Dám suồng tiền thuế rồi u vào rừng
Phen này tao chặt đôi chân
Khoét hai con mắt dằn dân Kiên thành!”
Nói xong giục mở cửa nhanh
Mười tên lem luốc nhọc nhằn khiêng vô
Khắc Tuyên đem rượu một vò
Nói là” ban thưởng! vàng chờ nhận sau!”
Nghe tin dân chúng ùa vào
Chen theo, quân Nhạc ào ào nhảy vô
Khắc Tuyên, xanh mặt, co giò
390- Hô quân nổi trống, kéo cờ động binh
Trống rền lửa trận thầm thình
Đội quân Thung, Lý, Tập Đình tràn qua
Phía trong quân Nhạc đánh ra
Giáp công hai mủi chim sa cá trồi
Khắc Tuyên thừa lúc tối trời
Dắt theo gia quyến một hơi tẩu đào
Quân triều một số chết đao
Số bị hoả hổ thét gào kêu la
Số thì chui trốn trong nhà
400- Phần đông quăng giáo cùng ra qui hàng
Trận đầu thắng lớn vẻ vang
Phủ Qui nhơn điểm một trang sử hồng
Nghiã binh các nẻo xuôi dòng
Đánh qua Tuy viễn, đánh vòng Phù ly
Một đêm thu gọn triều kỳ
Máu người tanh nặc đường đi lối mòn
Nhìn bà mẹ ôm xác con
Nhìn người vợ trẻ nỉ non khóc chồng
Lữ nghe từng nỗi mênh mông
410- Mà trong từng nỗi chất chồng lên nhau
Từ trong từng nỗi ran đau
Trong từng sớ thịt nặc màu máu tanh
”Phải là di sản chiến tranh
Hay di sản đoạn trường thanh phải là”
* **
Mùa xuân một bảy bảy ba
Nghĩa binh Nhạc chiếm phủ nhà Qui nhơn
”Mười chàng khiêng cũi lem nhem
biệt danh Thập hổ nhóm tên thành đồng
Văn Tuyết, Văn Sở, Xuân Phong
420- Đình Tú, Văn Dũng, Văn Long, Hai Dần
Xuân Bảo, Văn Nhậm, Văn Lân
Đem theo côn gỗ giấu trong cũi tù
Bất ngờ phá cũi đánh nhầu
Lính Tuyên đổ máu dập đầu tháo lui”
Nói ra ai nấy phì cười
Ngẫm đi ngẫm lại muôn người đều kinh
* **
Chương 3
Lăn tăn sóng gợn sông tình
Chàng trai Nguyễn Huệ tẩm quỳnh trên đao
Vươn vai rạng mặt anh hào
430- Côn quyền kinh sử lược thao gồm tài
Quân trường cùng Nhậm đăng cai
Ngày đêm huấn luyện miệt mài tinh binh
Núi rừng voi ngựa rầm rình
Giáo gươm lẻng kẻng bóng hình xôn xao
Từng ngày quân số dồi dào
Quân cơ ứng biến càng cao trí hùng
Cạnh thầy Trương Hiến sư hưng
Vợ chồng Quang Diệu- Thị Xuân cận kề
Khắp vùng An thái , Xuân huề
440- Cờ đào phấp phới đường quê rộn ràng
Lòng trời rọi xuống ánh vàng
Việc quân đến lúc sẵn sàng xuất chinh
Như nghe ai gọi tên mình
Như nhìn ngọn lửa rung rinh quan hà
Điều gì thôi thúc trong ta?
”Chiến công hay máu hay là niềm riêng
Hay vì quốc thái dân yên?
Hay chăng tất cả hiển nhiên nghiệp đời!”
Bỗng nghe lệnh khẩn triệu vời:
450- ”Đem quân tiếp ứng mặt ngoài Bồng sơn!
Binh triều, ồ ạt như tuôn
dẫn đầu danh tướng Thất Hương vang lừng
cùng con Đính, Chính oai hùng
trương cờ, hạ trại bên dòng Lại Giang
bày trò chiêu dụ gửi sang
Huệ xem đừng để hoang mang quân tình!”
Cùng Lân, Diệu ngắm địa hình
Thăm dò thời tiết, Huệ liền quyết ngay:
”ngàn binh, theo Diệu hướng tây,
460- ngăn dòng sông Lại bằng cây phục chờ
khi nghe lửa hiệu, phá bờ!
mượn giòng thác lũ bất ngờ thay gươm
xong xuống phục ở mé sông
những tên sống sót trói gông dẫn về!
tốc hành cho sớm bờ đê!
hoàn thành đâu đấy, báo về khẩn trương!
còn ta lãnh ấn tiên phuông
ba ngàn binh mã thẳng đường hướng sông
tinh binh hoả hổ dự phòng
470- chờ khi sát địch hỏa công bất ngờ!”
Quân triều đang lúc lơ mơ
Bỗng nghe trống lệnh trương cờ xuất binh
Dẫn đầu Tướng Đính ngang nghinh
Đón côn Đình Tú, giật mình tứ chi
Múa may vài hiệp, ạch ì
Trường côn sấm chớp tiễn đi chầu trời
Hàng ngàn binh mã chơi vơi
Bị hoả hổ đốt kêu trời tháo lui
Cánh quân Thất Chính đành lùi
480- Vượt sông, ngước mặt ngậm ngùi nhìn cha
Giữa giòng chớp lửa sáng loà
Nước nguồn như thác cuốn qua đầu người
Thất Hương khoảnh khắc rụng rời
Nhìn con- hai tướng thân phơi hai đường
Thằng anh lửa đốt thành than
Thằng em nước tiễn mơ màng cuối sông
Tiếng rên kêu khóc nghẽn giòng
Tiếng gươm tiếng súng rít gầm khói mây
Tiếng hô tiếng thét cuồng say
490- Bao nhiêu thứ tiếng lượn bay dày trời
Tướng Hương lòng đứt rạc rời
Tay gươm mặt ngửa nhìn trời thầm than:
”cả đời chinh chiến bao phen
binh thư kế sách dễ hèn một khi
chẳng hay địch dụng kiểu gì?
mà trong chớp mắt ngút nghì lưới giăng!
cũng từ thằng giặc Phúc Loan
mới ra cơ nghiệp tan hoang Nguyễn triều!”
Than xong hồn phách tiêu diêu
500- Hơn hai vạn lính máu điều nghịt sông
Số sống sót dạt ra đồng
Luồn qua lau lách tìm đường lánh thân
Ước chừng trên dưới năm trăm
Bơ phờ gươm giáo dãi dầm đau thương
Phật phờ kéo chạy qua truông
Bị quân mai phục chắn đường bủa vây
Cùng nhau thả giáo buông tay
Qui hàng để được toàn thây về nhà
Đội quân mai phục ấy là
510- Tập Đình cùng với Lý Tài – Nhạc giao.
Hai ngài không chút xuyến xao
Lệnh đám thuộc hạ chém ào một hơi
Ôi thôi! Máu vọt, đầu rơi!
Hơn năm trăm lính động trời thét kêu
Máu thây ứa nghẹt khúc đèo
Khí tanh rờn rợn rít theo tiếng cười
Xông lên ngùn ngụt đất trời
Lùng khừng hướng gió không lời chát cay
Hả hê một lượt sướng tay
520- Kéo nhau về trại bạch bày chiến công
Huệ ra tới đèo Thạch Tân
Nhìn thây quân Nguyễn chất chồng lên nhau
Có tên còn sống ngóc đầu:
"Cầu xin cứu mạng ơn sâu Hải Hà!”
Động lòng, Huệ lệnh kiểm tra:
"Xem ai còn thở, nhanh mà cứu ngay!”
Nghĩa binh vội vả xăn tay
Lôi ra trong đống, tính rày hơn mươi
Liền cho băng bó từng người
530- Tên quân cảm kích buộc lời nói ra:
"Nếu như sớm gặp Hải Hà
thì bao sinh mạng đâu ra nỗi này!
chúng tôi thả giáo, buông tay
xin hàng mà phải thác rày, thảm ghê!”
"- Giận thay cho lũ quân tề!
Hàng quân, sao dám u mê giết bừa?”
Hét xong, lòng Huệ như bưa
Sau lưng Nguyễn Nhạc cũng vừa đến nơi
Anh em bàn bạc một hồi
540- Nhạc lơ việc ấy mượn lời khuyên em:
"Lúc này ta rất cần quân
nếu đem ra xử việc càng rối thêm
đám quân người Hán chông chênh
ai cai quản chúng? Thôi nên làm hoà!
Việc cần kíp nhất đó là:
đóng quân, hạ trại, vạch ra chương trình
bên ta còn quá ít binh
lòng người còn lắm bồng bềnh nỗi lo
qua sông thì phải luỵ đò
550- Thôi vì cái lợi binh cơ hãy cùng!
* **
Vừa qua một trận thư hùng
Chủ Tây sơn – Nhạc, lòng mừng nhìn em:
”Trận này dấu ấn khó quên
thế nào triều Nguyễn cũng gờm quân ta
nhưng chúng đang sợ Bắc Hà:
- ngày đêm quân Trịnh cà rà Linh Giang.
Đội quân ba vạn của Hoằng
đã ra Trường Dục để ngăn mặt ngoài.
Nếu mà quân Trịnh ép đai
560- Quảng Nam lúc đó- con bài tay ta!
Giờ nên trong thế ôn hòa!
tuyển thêm quân số phòng ra tuyến ngoài
Hoặc là xuôi gió ra oai
thẳng đường đánh chiếm đền đài tất luôn!
hướng phòng, hướng tiến đều suông
- Huệ xem! hai hướng ta nên hướng nào?”
Huệ nhìn Thầy Hiến đổi trao
Lời Thầy phân tích thấp cao hai bề:
”- lòng dân chưa định hướng về
570- trước tiên ta phải mượn lề nghĩa nhân
- phao tin dẹp nạn Phúc Loan,
giúp phò minh chúa Hoàng tôn Dương, triều
- mặt ngoài củng cố thế ưu,
mặt trong phát lệnh vượt đèo Cù mông
- khẩn trương chiếm lấy Phú yên!
xuôi vào Bình thuận tạm dừng an dân
- chừng nghe giặc đổi thế công
- thì ta đã nắm chắc phần binh cơ”
Nghe qua lòng Nhạc mở cờ
58- Lệnh truyền Nguyễn Huệ chuyển bờ phía nam
Cùng ba tướng Tuyết, Sơ, Lân
Bốn ngàn binh mã rần rần giáo gươm
Nhìn quân Huệ nghĩ xa gần:
”Dọc vào Bình thuận rất cần thuỷ binh
Quân ta chưa có chiến thuyền
Trước khi xuất phát phải liền sửa sang”
Cho người xẻ gỗ khẩn trương
Đóng thuyền tập trận rập rờn ngày đêm
Thuỷ binh, tướng Tuyết trương buồm
590- Bộ binh Lân, Sở đạp rừng tiến vô
Tiến công hai mũi bất ngờ
Phú yên chớp mắt đỏ cờ Tây sơn
Dặm dài đồi núi chập chùng
Cửa nhà lác đác ruộng vườn lơ thơ
Ngư dân thấp thoáng ven bờ
Một màu xao xác dật dờ khói mây
Tiếng khua binh khí in dày
Mặn tanh dấu lệ mờ cay bụi hồng
Bàng hoàng lòng Huệ phân vân:
600- ”Chiến tranh- giành giựt! bể trầm luân ư?”
”Tà gian? Chính nghĩa? Rằng ừ!
”Một vòng lẩn quẩn gầm gừ lấy nhau”
”Núi sông ngầm ngập máu đào”
”Cỏ cây xơ xác hồ ao nhầy nhùa”
”Còn là được mất là thua ”
”Ngàn năm hai chữ Giặc – Vua xanh giờn”
Thẳng đường vào mở kho lương
Huệ cùng Tuyết, Sở phát thương dân nghèo
Chiêu an mộ lính lần theo
610- Đoàn quân rẽ cánh vượt đèo vào Nam
Thành Diên khánh giặc chẳng kham
Quan quân bỏ chạy dân làng trốn chui
Chiến công đỏ thắm bùi ngùi
Xót xa sủng ướt nụ cười vẻ vang
Bao nhiêu thành quách chói tràn
Phú yên , Bình thuận rỡ ràng bước quân
Ngoái nhìn chớm sắc đông lân
Rừng mai nhuốm lá nhành lan thò ngòi
Tuyến ngoài, Nguyễn Nhạc dò soi
620- Cùng quân sư Hiến cơ trời lắng sâu
Dùng ly gián kế- tờ rơi
”Phò Dương –Thế tử” làm nơi đối đầu
* **
Phú xuân nội bộ rối bời
Hai đầu thọ địch than trời trách mây
Định Vương hớt hãi mặt mày
Phúc Loan tâu bẩm việc này việc kia
Hai phe tranh lấy hai bề
Phe gian nước rút ngả về phe trung:
”Cúi cùng lập hoàng tôn Dương
630- Làm tân Thế tử trấn đường Quảng nam
Trịnh triều – Giao Quốc phó Loan
Thân già chống đỡ cầu an Bắc thành”
Phúc Loan kêu khóc thất thanh:
”- mạng ta sao lại mong manh thế này?
- chúa công, người nỡ ra tay!
- đời ta kết thúc thế này sao nguôi!”
Nguyễn Triều nghĩ đã êm xuôi
Ngờ đâu quân Trịnh chẳng lui lại tràn
Co giò Chúa khóc Phú xuân
640- Xót xa Nam, Ngãi hối thuyền ra khơi
Nhìn cờ quân Trịnh sát nơi
Định vương ngửa mặt lên trời kêu than:
”- lòng trời chẳng đoái Chúa Nam
hai trăm năm nghiệp tro than cả rồi!
- Tiên vương hởi! Tiên vương ôi!
- xót xa biết mấy hồn Người cõi thiêng!
- phải chi giữ được tôi hiền
- thân này đâu nỗi ra miền nước mây!”
Than rồi buồm hướng nam xoay
650- Cùng trăm binh tướng đêm ngày lần vô
* **
Quảng Nam chủ Nhạc dựng cờ
Phú Xuân quân Trịnh reo hò chiến công
Thẳng đường Trịnh vượt Hải Vân
Găp binh Đình Tú rần rần tiến ra
Hai bên xáp trận giữ hoà
Dãn dần khoảng cách tầm xa cánh đồng
Tây Sơn hạ lệnh ngự phòng
Tập Đình xin được lập công chiếm đèo
Dẫn ngàn lính Hán đuổi theo
660- Gặp toán quân Trịnh chân đèo phục vây
Tả xông hữu đột nửa ngày
Cuối cùng thoát được trốn ngay về Tàu
Hai bên hạ trại biên phòng
"Dò tìm giải pháp thuận lòng dân Nam
Trịnh triều, Ngũ Phúc tướng quân
Truyền vời Hữu Chỉnh họp bàn kế hay
Chỉnh rằng:” sách lược như vầy…
- Dụng quân Nguyễn Nhạc! Cánh tay Bắc triều
- Đang đà họ sẽ tiến theo
670 - Tàn binh Vương Nguyễn tan tiêu mấy hồi!”
Tây sơn hạ lệnh di dời
Đóng quân Quảng Ngãi nghĩ ngơi liệu đường
Tiếp thu số lính theo Dương
Gần ngàn binh mã bổ sung mặt ngoài
Đắp đồn sửa luỹ vành đai
Xong giao Tú, Dũng, Diệu cai quản thành
Tăng cường Tướng Đặng Văn Long
Rà theo dọc biển tuần phòng quân gian
Tình hình đâu đó khả quan
680- Nhạc mời Dương, Chất, Hầu sang cùng về
Qui nhơn phủ gió đông se
Đoàn quân chiến thắng ngựa xe vào thành
"Con mừng mẹ em tìm anh
Vợ chồng hoà lệ đã dành bao trăng
Đã đem đổi bấy nhục nhằn
Chờ săm se mặt mà trăn trở lòng
Cuộc đời ôm mãi nỗi mong
Tấm thân bèo bọt giữa dòng nước mây
Vẫn là một khoảng chơi vơi
690- Làm con đò nhỏ nói lời phong ba
Một lần nào đó nhớ ra
Ngày xuân mòn mỏi mùa hoa không về
***
Đọc thư Chủ Nhạc cà kê
An dân mộ lính đề huề, thư ra:
”- rằng tôi nay muốn cầu hoà
- rất mong quí quốc hải hà lượng trên
- loạn thần Quốc phó đã yên
- chỉ mong làm phận tôi hiền vua Lê!”
Đọc thư, Ngũ Phúc hả hê
700- Sai người về báo Bắc hà chuẩn y
Quảng nam tiếp quản tức thì
Đích thân Hoàng Phúc chỉ huy trong ngoài
Sông Thu bồn tháp đứng soi
Rung rinh tiếng cổ thở dài đáy sâu
Quặn theo dòng nước xanh ngầu
Xác xao bóng trúc âu sầu cỏ hoa
* **
Mùa đông Giáp ngọ đã qua
Phủ Qui nhơn, Nhạc sửa toà cơ ngơi
”Nhận phong sắc ấn chúa Ngoài
710- Sứ quan Hửu Chỉnh được sai chuyển vào
Chức danh Hiệu trưởng chiếu giao
Quảng nam trấn thủ thẳng vào phương Nam”
Tiếp chỉ xong, Nhạc họp bàn:
”- tạm thời ta đủ thời gian tiến lùi
- quân lương củng cố xong xuôi
- chờ xoay hướng gió châm ngòi khởi binh
- Thọ Hương, ái nữ đang xinh
- ý ta tác hợp thâm tình cùng Dương
- quân sư xem thử nếu tường
720 - ông làm mai mối mở đường giúp nhanh!”
Nghe xong Trương Hiến tán thành
Mời Dương bày tỏ ngọn ngành đôi bên
Lòng Dương đang lúc bấp bênh:
”Nửa mừng nửa sợ nửa tin nửa ngờ
Đành xuôi như bước trong mơ
Nhập vai con tốt ván cờ binh gia
Cùng nàng áo cưới kiệu hoa
Gọi ông chủ Nhạc bằng cha sượng sùng”
* **
Nhắc qua chúa Nguyễn – Định vương
730- Nỗi lòng vời vợi dặm trường ruỗi dong
Vào thành Gia định điểm quân
Gọi quan tổng trấn Tống, nhanh kiến triều:
”- ý ta hướng thẳng mục tiêu,
dồn quân đánh Nhạc quyết liều một phen
Long hồ, Phiên chấn, Trấn biên
Hợp thành hai đạo bộ thuyền đánh ra
- vì ta giành lại sơn hà
- vì ơn tiên đế bôn ba bao đời…”
Nghe qua Phúc Hiệp lệ rơi
740- Cùng con bốn tướng sáng ngời gươm đao
Chiến thuyền, voi, ngựa rầm rào
Điểm binh ba vạn ạt ào Bắc chinh
Thế quân như thác xuôi ghềnh
Tướng thành Bình thuận- Lữ đành rút êm
Bỏ Diên khánh cả Phú yên
Dồn quân về phủ Qui nhơn họp bàn
* **
Ván cờ phò chúa sang trang
Quân sư Trương Hiến vội vàng thảo thư
Xem qua, ý Nhạc chần chừ
750- Vội vời Huệ, Lữ thực hư nội tình
Anh em trao đổi anh minh
Làm theo kế sách điều đình chọn Vương
Rằng:” - Hoàng tôn- Thế tử Dương
Mới là kế vị triều đường chúa nam!
Chỉ vì lão giặc Phúc Loan
Định vương cơ hội ngai vàng bấy nay!
Chúng tôi nguyện sẽ chung tay
Mong ngài hợp tác chọn ngày lập Dương!”
Đọc qua, Phúc Hiệp mồm trương
760- Xé thư, trợn mắt ra dường giận căm
Đăng Trường, mưu sĩ thì thầm:
”- ta nên tương kế sang thăm Tôn Hoàng
- mật thư nội ứng cận quan
- ngầm giao Phúc Chất đảm đang việc này
- vờ mời Chưởng Chất sang đây
- để bàn cụ thể chờ ngày hai bên…
- thế nào địch cũng chủ quan
- xuất quân, thủy bộ liên hoàn đánh ta
- dụ cho chúng bước vào nhà
770 - phục binh cánh bắc bung ra giáng đòn
- phía đông áp sát bắn tên
- phía nam hoả lực dập dồn yểm công
- phen này chúng hoá thành rồng
- lên mây lập hội tương phùng cho xong… ”
Qui nhơn phủ, Nhạc nóng lòng
Quân sư Trương Hiến phập phồng nỗi riêng
”Lỡ mà Phúc Chất trốn luôn?
Thì ta chắc phải ôm buồn thiên thu!”
Nhìn thầy giáo Hiến ưu tư
780- Loé trong trí Huệ binh thư sáng ngời
Liền cùng anh cả liệu lời:
”nhận quân hai đạo trận này đảm đương
thuỷ binh tướng Tuyết tiên phuông
bộ binh Lân, Sở, theo đường Cù mông
Diệu cùng Huệ vòng đường rừng
qua cửa Tây phục giáng lưng bất ngờ”
Đồng tình lòng Nhạc vẫn lo:
”lo vì Tống tướng quân cơ lẫy lừng
chỉ huy ba vạn binh hùng
790- Chiến thuyền pháo ngựa trập trùng phòng, trương
lại thêm mưu sĩ Đăng Trường…
nhưng nằm trong thế khó phương chần chừ”
Bên kia Phúc Hiệp gật gù
Chia quân thuỷ, bộ phục chờ bắc, đông
Bốn con- bốn tướng thành đồng
Lạnh ngời gươm giáo rợn nồng tóc tang
Nửa đêm, bỗng tiếng ầm vang
Tây thành ngập lửa khói tràn vào dinh
Xé tai, đạn pháo thình thình
800- Lính trong tán loạn máu tanh loang nhầy
Kinh hoàng, Lão tướng phóng ngay
Băng qua hướng bắc định xoay quân về
”Thấy con- người ngựa xác xơ
Cùng vài trăm lính bơ phờ tẩu dong
Nhìn qua bờ biển phía đông
Tiếng khua binh khí rực hồng khói mây
Quay nhìn rừng núi phía tây
Hoài nghi ông nhủ thế này là sao?
Quân cơ ta đã đón rào
810- Hoá ra nhầm lẫn anh hào Tây sơn!
Trí mưu một cõi thánh thần
Dùng đường thượng lộ đánh ầm vào lưng
Tài thay một bậc anh hùng!
Ngàn năm có một lẫy lừng không hai
Nghiệp Vương nhà Nguyễn đã dài
Cơ trời muốn chuyển vũ đài đang xoay
Tuổi ta nay cũng đã dày
Thôi vì một chữ trung này xin lui”
Than xong, đâm ngực, ngửa cười
820- Phúc Lương, Viết Nghĩa lao người giằng cha
Một dòng máu đỏ trào ra
Thân người còn đứng hồn đà lên thiên
”xót thay một đấng tôi hiền
đem thân trả nghiệp vào miền vô minh
vì sao không mở cửa tình
hướng cho con trẻ lối nhìn thế nhân
hay là mượn chữ trung thần
mà xong cho sớm nghiệp trần lao nhao”
Bầu trời rụng một mảng sao
830- Rừng nghiêng lá thức lào xào ánh dương
Tàn quân Tống Phúc…tận đường
Men theo khe đá qua nương xuống gành
Đi bừa, phó mặc tử sanh
Bỗng nghe phía trước động manh bóng người
Ngập ngời một toán quân tươi
Chừng ngàn mũ áo khác người Tây sơn
Lô nhô đao kiếm rợn rờn
Hướng theo bờ đá ngắn dần tầm trông
Anh em họ Tống phập phồng
840- Phúc Lương ra hiệu nép trong khe chờ :
”Nếu mà họ nhắm vào ta
Quyết liều sống mái đánh ra mở đường”
Bỗng nghe từ phía đối phương:
”- Nguy rồi! Có lính Tây sơn núp kìa!
- Nhìn xem! dọc dưới con khe
- Dường như có tiếng ư khè, người rên!”
Hoàn hồn Viết Phúc chui lên
Bước ra giáp mặt toán quân bìa rừng
Hai bên thoáng phút phân vân
850- Hỏi nhau mới biết nguồn cơn sự tình
”Là quân Châu Tiếp đồng minh
trước tranh với Nhạc nội tình Qui nhơn
Đoan Chữ, anh Tiếp thác oan
nên tìm quân Nguyễn qui hàng lập công”
Đúng là cơ hội ngàn năm
Tháp tùng tìm hướng vào Nam vội vàng
* **
Sau khi Huệ, Diệu phá thành
Cù mông- Lân, Sở siết công hai đầu
Tây Nam thành, Diệu áp theo
860- Phía đông quân Tuyết đánh nhầu hướng lên
Chỉ trong tích tắc một đêm
Quân triều ba vạn nát mềm như tương
Thương thay ông Nguyễn Đăng Trường
Đưa thân chịu trói như phường Việt gian
Trong ngoài xác giặc ngỗn ngang
Khói xông mùi máu lửa tràn ánh tanh
Qui nhơn phủ , Phú yên thành
Hai mùa chiến thắng long lanh sắc đào
***
Chương 4
Phúc Dương -Thế Tử nghẹn ngào
870- Khi nghe Phúc Hiệp – Tướng Triều tử vong
Hơn hai vạn lính qui tiên
Ba xe lương thảo vào miền nước mây
Lòng anh ngao ngán đong đầy
Nhìn cô vợ mới nằm say giấc lành
Mới vừa mười bốn xuân xanh
Tí ta tí tửng tập tành nói ăn
Suốt ngày hết áo rồi khăn
Chán ơi! cái số chiếu chăn nghịch đời
Chiều nay Nhạc phụ sang chơi
880- Dương liền bày tỏ những lời tâm can
Rằng:” tôi vốn có duyên căn
Cùng cửa thiền tự quyết lòng đi tu
Mong người mở lượng đại từ
Cho tôi sớm được vào nơi phật đường!
Còn em thê nử Thọ Hương
Ngây thơ trong trắng xin nương nhờ ngài!”
Nói xong, quì khóc nghẹn ngào
Bất ngờ Chủ Nhạc nghe xao xuyến ngùi
Quay nhìn con gái lòng nguôi
890- Ra về mời lại mấy người bàn qua
Thương con lỡ một nhành hoa
Âu là số phận cũng là vận may
Thôi thì cứ tính thế này:
"Có ngôi Thập Tháp gần đây tiện bề
đưa Dương qua đó vỗ về
nếu cần tìm cách ‘Chim về tổ xưa’
Lý Tài đang lúc ầm ừa
dường như hắn muốn đong đưa chuyện gì
nhân đây lập kế đẫy đi
900- Tớ thầy hắn tới đối đầu Định vương”
Nhạc –Thung - Huệ - Lữ bàn cùng
Làm theo kế sách nhị phùng tranh ngôi
Vừa qua một trận thư hùng
Chủ Tây sơn – Nhạc, lòng mừng nhìn em:
”Trận này dấu ấn khó quên
thế nào triều Nguyễn cũng gờm quân ta
nhưng chúng đang sợ Bắc Hà:
- ngày đêm quân Trịnh cà rà Linh Giang.
Đội quân ba vạn của Hoằng
đã ra Trường Dục để ngăn mặt ngoài.
Nếu mà quân Trịnh ép đai
560- Quảng Nam lúc đó- con bài tay ta!
Giờ nên trong thế ôn hòa!
tuyển thêm quân số phòng ra tuyến ngoài
Hoặc là xuôi gió ra oai
thẳng đường đánh chiếm đền đài tất luôn!
hướng phòng, hướng tiến đều suông
- Huệ xem! hai hướng ta nên hướng nào?”
Huệ nhìn Thầy Hiến đổi trao
Lời Thầy phân tích thấp cao hai bề:
”- lòng dân chưa định hướng về
570- trước tiên ta phải mượn lề nghĩa nhân
- phao tin dẹp nạn Phúc Loan,
giúp phò minh chúa Hoàng tôn Dương, triều
- mặt ngoài củng cố thế ưu,
mặt trong phát lệnh vượt đèo Cù mông
- khẩn trương chiếm lấy Phú yên!
xuôi vào Bình thuận tạm dừng an dân
- chừng nghe giặc đổi thế công
- thì ta đã nắm chắc phần binh cơ”
Nghe qua lòng Nhạc mở cờ
58- Lệnh truyền Nguyễn Huệ chuyển bờ phía nam
Cùng ba tướng Tuyết, Sơ, Lân
Bốn ngàn binh mã rần rần giáo gươm
Nhìn quân Huệ nghĩ xa gần:
”Dọc vào Bình thuận rất cần thuỷ binh
Quân ta chưa có chiến thuyền
Trước khi xuất phát phải liền sửa sang”
Cho người xẻ gỗ khẩn trương
Đóng thuyền tập trận rập rờn ngày đêm
Thuỷ binh, tướng Tuyết trương buồm
590- Bộ binh Lân, Sở đạp rừng tiến vô
Tiến công hai mũi bất ngờ
Phú yên chớp mắt đỏ cờ Tây sơn
Dặm dài đồi núi chập chùng
Cửa nhà lác đác ruộng vườn lơ thơ
Ngư dân thấp thoáng ven bờ
Một màu xao xác dật dờ khói mây
Tiếng khua binh khí in dày
Mặn tanh dấu lệ mờ cay bụi hồng
Bàng hoàng lòng Huệ phân vân:
600- ”Chiến tranh- giành giựt! bể trầm luân ư?”
”Tà gian? Chính nghĩa? Rằng ừ!
”Một vòng lẩn quẩn gầm gừ lấy nhau”
”Núi sông ngầm ngập máu đào”
”Cỏ cây xơ xác hồ ao nhầy nhùa”
”Còn là được mất là thua ”
”Ngàn năm hai chữ Giặc – Vua xanh giờn”
Thẳng đường vào mở kho lương
Huệ cùng Tuyết, Sở phát thương dân nghèo
Chiêu an mộ lính lần theo
610- Đoàn quân rẽ cánh vượt đèo vào Nam
Thành Diên khánh giặc chẳng kham
Quan quân bỏ chạy dân làng trốn chui
Chiến công đỏ thắm bùi ngùi
Xót xa sủng ướt nụ cười vẻ vang
Bao nhiêu thành quách chói tràn
Phú yên , Bình thuận rỡ ràng bước quân
Ngoái nhìn chớm sắc đông lân
Rừng mai nhuốm lá nhành lan thò ngòi
Tuyến ngoài, Nguyễn Nhạc dò soi
620- Cùng quân sư Hiến cơ trời lắng sâu
Dùng ly gián kế- tờ rơi
”Phò Dương –Thế tử” làm nơi đối đầu
* **
Phú xuân nội bộ rối bời
Hai đầu thọ địch than trời trách mây
Định Vương hớt hãi mặt mày
Phúc Loan tâu bẩm việc này việc kia
Hai phe tranh lấy hai bề
Phe gian nước rút ngả về phe trung:
”Cúi cùng lập hoàng tôn Dương
630- Làm tân Thế tử trấn đường Quảng nam
Trịnh triều – Giao Quốc phó Loan
Thân già chống đỡ cầu an Bắc thành”
Phúc Loan kêu khóc thất thanh:
”- mạng ta sao lại mong manh thế này?
- chúa công, người nỡ ra tay!
- đời ta kết thúc thế này sao nguôi!”
Nguyễn Triều nghĩ đã êm xuôi
Ngờ đâu quân Trịnh chẳng lui lại tràn
Co giò Chúa khóc Phú xuân
640- Xót xa Nam, Ngãi hối thuyền ra khơi
Nhìn cờ quân Trịnh sát nơi
Định vương ngửa mặt lên trời kêu than:
”- lòng trời chẳng đoái Chúa Nam
hai trăm năm nghiệp tro than cả rồi!
- Tiên vương hởi! Tiên vương ôi!
- xót xa biết mấy hồn Người cõi thiêng!
- phải chi giữ được tôi hiền
- thân này đâu nỗi ra miền nước mây!”
Than rồi buồm hướng nam xoay
650- Cùng trăm binh tướng đêm ngày lần vô
* **
Quảng Nam chủ Nhạc dựng cờ
Phú Xuân quân Trịnh reo hò chiến công
Thẳng đường Trịnh vượt Hải Vân
Găp binh Đình Tú rần rần tiến ra
Hai bên xáp trận giữ hoà
Dãn dần khoảng cách tầm xa cánh đồng
Tây Sơn hạ lệnh ngự phòng
Tập Đình xin được lập công chiếm đèo
Dẫn ngàn lính Hán đuổi theo
660- Gặp toán quân Trịnh chân đèo phục vây
Tả xông hữu đột nửa ngày
Cuối cùng thoát được trốn ngay về Tàu
Hai bên hạ trại biên phòng
"Dò tìm giải pháp thuận lòng dân Nam
Trịnh triều, Ngũ Phúc tướng quân
Truyền vời Hữu Chỉnh họp bàn kế hay
Chỉnh rằng:” sách lược như vầy…
- Dụng quân Nguyễn Nhạc! Cánh tay Bắc triều
- Đang đà họ sẽ tiến theo
670 - Tàn binh Vương Nguyễn tan tiêu mấy hồi!”
Tây sơn hạ lệnh di dời
Đóng quân Quảng Ngãi nghĩ ngơi liệu đường
Tiếp thu số lính theo Dương
Gần ngàn binh mã bổ sung mặt ngoài
Đắp đồn sửa luỹ vành đai
Xong giao Tú, Dũng, Diệu cai quản thành
Tăng cường Tướng Đặng Văn Long
Rà theo dọc biển tuần phòng quân gian
Tình hình đâu đó khả quan
680- Nhạc mời Dương, Chất, Hầu sang cùng về
Qui nhơn phủ gió đông se
Đoàn quân chiến thắng ngựa xe vào thành
"Con mừng mẹ em tìm anh
Vợ chồng hoà lệ đã dành bao trăng
Đã đem đổi bấy nhục nhằn
Chờ săm se mặt mà trăn trở lòng
Cuộc đời ôm mãi nỗi mong
Tấm thân bèo bọt giữa dòng nước mây
Vẫn là một khoảng chơi vơi
690- Làm con đò nhỏ nói lời phong ba
Một lần nào đó nhớ ra
Ngày xuân mòn mỏi mùa hoa không về
***
Đọc thư Chủ Nhạc cà kê
An dân mộ lính đề huề, thư ra:
”- rằng tôi nay muốn cầu hoà
- rất mong quí quốc hải hà lượng trên
- loạn thần Quốc phó đã yên
- chỉ mong làm phận tôi hiền vua Lê!”
Đọc thư, Ngũ Phúc hả hê
700- Sai người về báo Bắc hà chuẩn y
Quảng nam tiếp quản tức thì
Đích thân Hoàng Phúc chỉ huy trong ngoài
Sông Thu bồn tháp đứng soi
Rung rinh tiếng cổ thở dài đáy sâu
Quặn theo dòng nước xanh ngầu
Xác xao bóng trúc âu sầu cỏ hoa
* **
Mùa đông Giáp ngọ đã qua
Phủ Qui nhơn, Nhạc sửa toà cơ ngơi
”Nhận phong sắc ấn chúa Ngoài
710- Sứ quan Hửu Chỉnh được sai chuyển vào
Chức danh Hiệu trưởng chiếu giao
Quảng nam trấn thủ thẳng vào phương Nam”
Tiếp chỉ xong, Nhạc họp bàn:
”- tạm thời ta đủ thời gian tiến lùi
- quân lương củng cố xong xuôi
- chờ xoay hướng gió châm ngòi khởi binh
- Thọ Hương, ái nữ đang xinh
- ý ta tác hợp thâm tình cùng Dương
- quân sư xem thử nếu tường
720 - ông làm mai mối mở đường giúp nhanh!”
Nghe xong Trương Hiến tán thành
Mời Dương bày tỏ ngọn ngành đôi bên
Lòng Dương đang lúc bấp bênh:
”Nửa mừng nửa sợ nửa tin nửa ngờ
Đành xuôi như bước trong mơ
Nhập vai con tốt ván cờ binh gia
Cùng nàng áo cưới kiệu hoa
Gọi ông chủ Nhạc bằng cha sượng sùng”
* **
Nhắc qua chúa Nguyễn – Định vương
730- Nỗi lòng vời vợi dặm trường ruỗi dong
Vào thành Gia định điểm quân
Gọi quan tổng trấn Tống, nhanh kiến triều:
”- ý ta hướng thẳng mục tiêu,
dồn quân đánh Nhạc quyết liều một phen
Long hồ, Phiên chấn, Trấn biên
Hợp thành hai đạo bộ thuyền đánh ra
- vì ta giành lại sơn hà
- vì ơn tiên đế bôn ba bao đời…”
Nghe qua Phúc Hiệp lệ rơi
740- Cùng con bốn tướng sáng ngời gươm đao
Chiến thuyền, voi, ngựa rầm rào
Điểm binh ba vạn ạt ào Bắc chinh
Thế quân như thác xuôi ghềnh
Tướng thành Bình thuận- Lữ đành rút êm
Bỏ Diên khánh cả Phú yên
Dồn quân về phủ Qui nhơn họp bàn
* **
Ván cờ phò chúa sang trang
Quân sư Trương Hiến vội vàng thảo thư
Xem qua, ý Nhạc chần chừ
750- Vội vời Huệ, Lữ thực hư nội tình
Anh em trao đổi anh minh
Làm theo kế sách điều đình chọn Vương
Rằng:” - Hoàng tôn- Thế tử Dương
Mới là kế vị triều đường chúa nam!
Chỉ vì lão giặc Phúc Loan
Định vương cơ hội ngai vàng bấy nay!
Chúng tôi nguyện sẽ chung tay
Mong ngài hợp tác chọn ngày lập Dương!”
Đọc qua, Phúc Hiệp mồm trương
760- Xé thư, trợn mắt ra dường giận căm
Đăng Trường, mưu sĩ thì thầm:
”- ta nên tương kế sang thăm Tôn Hoàng
- mật thư nội ứng cận quan
- ngầm giao Phúc Chất đảm đang việc này
- vờ mời Chưởng Chất sang đây
- để bàn cụ thể chờ ngày hai bên…
- thế nào địch cũng chủ quan
- xuất quân, thủy bộ liên hoàn đánh ta
- dụ cho chúng bước vào nhà
770 - phục binh cánh bắc bung ra giáng đòn
- phía đông áp sát bắn tên
- phía nam hoả lực dập dồn yểm công
- phen này chúng hoá thành rồng
- lên mây lập hội tương phùng cho xong… ”
Qui nhơn phủ, Nhạc nóng lòng
Quân sư Trương Hiến phập phồng nỗi riêng
”Lỡ mà Phúc Chất trốn luôn?
Thì ta chắc phải ôm buồn thiên thu!”
Nhìn thầy giáo Hiến ưu tư
780- Loé trong trí Huệ binh thư sáng ngời
Liền cùng anh cả liệu lời:
”nhận quân hai đạo trận này đảm đương
thuỷ binh tướng Tuyết tiên phuông
bộ binh Lân, Sở, theo đường Cù mông
Diệu cùng Huệ vòng đường rừng
qua cửa Tây phục giáng lưng bất ngờ”
Đồng tình lòng Nhạc vẫn lo:
”lo vì Tống tướng quân cơ lẫy lừng
chỉ huy ba vạn binh hùng
790- Chiến thuyền pháo ngựa trập trùng phòng, trương
lại thêm mưu sĩ Đăng Trường…
nhưng nằm trong thế khó phương chần chừ”
Bên kia Phúc Hiệp gật gù
Chia quân thuỷ, bộ phục chờ bắc, đông
Bốn con- bốn tướng thành đồng
Lạnh ngời gươm giáo rợn nồng tóc tang
Nửa đêm, bỗng tiếng ầm vang
Tây thành ngập lửa khói tràn vào dinh
Xé tai, đạn pháo thình thình
800- Lính trong tán loạn máu tanh loang nhầy
Kinh hoàng, Lão tướng phóng ngay
Băng qua hướng bắc định xoay quân về
”Thấy con- người ngựa xác xơ
Cùng vài trăm lính bơ phờ tẩu dong
Nhìn qua bờ biển phía đông
Tiếng khua binh khí rực hồng khói mây
Quay nhìn rừng núi phía tây
Hoài nghi ông nhủ thế này là sao?
Quân cơ ta đã đón rào
810- Hoá ra nhầm lẫn anh hào Tây sơn!
Trí mưu một cõi thánh thần
Dùng đường thượng lộ đánh ầm vào lưng
Tài thay một bậc anh hùng!
Ngàn năm có một lẫy lừng không hai
Nghiệp Vương nhà Nguyễn đã dài
Cơ trời muốn chuyển vũ đài đang xoay
Tuổi ta nay cũng đã dày
Thôi vì một chữ trung này xin lui”
Than xong, đâm ngực, ngửa cười
820- Phúc Lương, Viết Nghĩa lao người giằng cha
Một dòng máu đỏ trào ra
Thân người còn đứng hồn đà lên thiên
”xót thay một đấng tôi hiền
đem thân trả nghiệp vào miền vô minh
vì sao không mở cửa tình
hướng cho con trẻ lối nhìn thế nhân
hay là mượn chữ trung thần
mà xong cho sớm nghiệp trần lao nhao”
Bầu trời rụng một mảng sao
830- Rừng nghiêng lá thức lào xào ánh dương
Tàn quân Tống Phúc…tận đường
Men theo khe đá qua nương xuống gành
Đi bừa, phó mặc tử sanh
Bỗng nghe phía trước động manh bóng người
Ngập ngời một toán quân tươi
Chừng ngàn mũ áo khác người Tây sơn
Lô nhô đao kiếm rợn rờn
Hướng theo bờ đá ngắn dần tầm trông
Anh em họ Tống phập phồng
840- Phúc Lương ra hiệu nép trong khe chờ :
”Nếu mà họ nhắm vào ta
Quyết liều sống mái đánh ra mở đường”
Bỗng nghe từ phía đối phương:
”- Nguy rồi! Có lính Tây sơn núp kìa!
- Nhìn xem! dọc dưới con khe
- Dường như có tiếng ư khè, người rên!”
Hoàn hồn Viết Phúc chui lên
Bước ra giáp mặt toán quân bìa rừng
Hai bên thoáng phút phân vân
850- Hỏi nhau mới biết nguồn cơn sự tình
”Là quân Châu Tiếp đồng minh
trước tranh với Nhạc nội tình Qui nhơn
Đoan Chữ, anh Tiếp thác oan
nên tìm quân Nguyễn qui hàng lập công”
Đúng là cơ hội ngàn năm
Tháp tùng tìm hướng vào Nam vội vàng
* **
Sau khi Huệ, Diệu phá thành
Cù mông- Lân, Sở siết công hai đầu
Tây Nam thành, Diệu áp theo
860- Phía đông quân Tuyết đánh nhầu hướng lên
Chỉ trong tích tắc một đêm
Quân triều ba vạn nát mềm như tương
Thương thay ông Nguyễn Đăng Trường
Đưa thân chịu trói như phường Việt gian
Trong ngoài xác giặc ngỗn ngang
Khói xông mùi máu lửa tràn ánh tanh
Qui nhơn phủ , Phú yên thành
Hai mùa chiến thắng long lanh sắc đào
***
Chương 4
Phúc Dương -Thế Tử nghẹn ngào
870- Khi nghe Phúc Hiệp – Tướng Triều tử vong
Hơn hai vạn lính qui tiên
Ba xe lương thảo vào miền nước mây
Lòng anh ngao ngán đong đầy
Nhìn cô vợ mới nằm say giấc lành
Mới vừa mười bốn xuân xanh
Tí ta tí tửng tập tành nói ăn
Suốt ngày hết áo rồi khăn
Chán ơi! cái số chiếu chăn nghịch đời
Chiều nay Nhạc phụ sang chơi
880- Dương liền bày tỏ những lời tâm can
Rằng:” tôi vốn có duyên căn
Cùng cửa thiền tự quyết lòng đi tu
Mong người mở lượng đại từ
Cho tôi sớm được vào nơi phật đường!
Còn em thê nử Thọ Hương
Ngây thơ trong trắng xin nương nhờ ngài!”
Nói xong, quì khóc nghẹn ngào
Bất ngờ Chủ Nhạc nghe xao xuyến ngùi
Quay nhìn con gái lòng nguôi
890- Ra về mời lại mấy người bàn qua
Thương con lỡ một nhành hoa
Âu là số phận cũng là vận may
Thôi thì cứ tính thế này:
"Có ngôi Thập Tháp gần đây tiện bề
đưa Dương qua đó vỗ về
nếu cần tìm cách ‘Chim về tổ xưa’
Lý Tài đang lúc ầm ừa
dường như hắn muốn đong đưa chuyện gì
nhân đây lập kế đẫy đi
900- Tớ thầy hắn tới đối đầu Định vương”
Nhạc –Thung - Huệ - Lữ bàn cùng
Làm theo kế sách nhị phùng tranh ngôi
* **
Nhắc qua Thầy Hiến- quân sư
Từ khi Phúc Chất ra đi không về
Lòng ông chủ Nhạc như tê
Mối ngờ đậm nét lòng mê nhạt nhoà
Nhạc mời Hiến về khu nhà
Cách Qui Nhơn phủ hăm ba dặm triền
Có cây trái, có hoa viên
910- Gọi là ân nghĩa suốt liền bao năm
Nơi đây không khí tươi hồng
Gần sông suối trước ruộng đồng mát xanh
Nhìn cơ ngơi mới ngọt lành
Lòng thầy giáo Hiến lạnh tanh lụi tàn
Nhìn cô con gái mới đang
"Như nghe vọng nỗi bàng hoàng xót xa
-lòng trung dẫn tới đây à?
Hay ta tuổi đã quá già rồi sao?
Hay do trời đất ba đào
920- Nổi cơn thịnh nộ ào ào càn khôn
Hay từ hai chữ vuông tròn
Muốn cho người biết tiếng thơm quan trường”
Nhìn con hai đứa mà thương
Trong đôi mắt chúng như dường băn khoăn
"Thầy nghe bao nỗi trọc trằn
Bỗng như ai quất vết hằn vào tim
Hồn như đang có ai dìm
Ngất ngư giữa một nỗi niềm trống không”
Nhìn ra trước mặt cánh đồng
930- Nhìn xa xa ấy núi sông kia mà
Nhìn lên trời khói mây là
Nhìn xuống đất thấy một toà cơ ngơi
Hay đây đã định ý trời
Để ta an nghĩ khoảnh đời không đâu?”
Thằng anh:”nó lớn thật rồi!
Đứa con ta nhận từ lâu tay người
Vợ chồng chăm chút dưỡng nuôi
Thông minh nhanh lẹ nói cười dễ thương
Dòng này vốn gốc thư hương
940- Quan trường chém giết tai ương ba đời
Nó về nhằm vợ đẻ rơi
Con Hoài Sơn cũng chào đời oa oa
Tin đồn đây đó gần xa
Song sinh một cặp nơi nhà giáo Trương
Con trai tên Hoài Lê Lương
Con gái là Thị Hoài Sơn bây giờ
Hai mươi năm một giấc mơ
Đời người trôi nổi bến bờ bão giông
Bà Trương ngắn số thờ chồng
950- Ba năm trước, nghiệp má hồng xoá tên
Giờ còn đôi trẻ đứng bên
Ta còn tỉnh táo phải nên tính liền!
Biết đâu mai mốt hoá điên?
Bơ vơ đôi trẻ nghiệp duyên sao đành!
Cùng con nhắc lại ngọn nghành
Rồi nhờ Chủ Nhạc tác thành lứa đôi
* **
Ngày hôn lễ trước mắt rồi
Chờ người tri kỉ nói lời chia xa
Ngày đêm ràn rụa mắt hoa
960- Tàng trăng dõi bước quan hà ngóng tin
Lời về hai tiếng im lìm
Lời đi từng giọt lệ tim canh tàn
Giữa ngày pháo nổ hoa giăng
Mối tình đầu đã vĩnh hằng nơi đây
Trời cao biển rộng đất dày
Trăm năm khoanh lại một ngày đớn đau
* **
Quay qua ông tướng Lý Tàu
Gần ngàn lính thuỷ ra vào cửa Đông
Từ ngày biến mất Tập Đình
970- Lại buồn chúa Nhạc xem mình hồ nghi
Bao lần ông gắng níu trì
Cố tìm ra hướng? lối đi mịt mù!
Nghe tin Thế tử Dương tu
Ở chùa Thập Tháp liền ù vào thăm
Hai bên to nhỏ thì thầm
Một đêm trời tối biệt tăm tớ thầy
Thuận buồm theo gió heo may
Xuôi Nam một mạch vào ngay Thị Nghè
Mượn đồn đóng trại dựng cờ
980- Phúc Dương thư khẩn ngồi chờ Định Vương
Sự đời lắm lúc khó lường
Thành Nhân giấu Chúa để trườn tay trên
"Cho rằng: gian kế Tây Sơn
Lý Tài là giặc ta nên đề phòng”
Hai bên vào trận thư hùng
Phúc Dương qui tụ phần đông tướng nhà
Năm ngàn quân lính dàn ra
Sài Côn bị hãm xót xa tớ thầy
Thẳng căng hơn quá ba ngày
990- Thành Nhân đành rút ra ngoài rừng Tam
Quân Tài mai phục sau làng
Ào ra chém giết, Thành Nhân rụng rời
Cả ngàn binh sĩ đầu rơi
Một kho lương thảo đi đời nhà ma
Nhìn cơ nghiệp những xót xa
Thành Nhân nén lệ cố nhoà cơn đau
Vào thành cháu chú nhìn nhau
Phúc Dương thế tử ngẩng đầu đăng quang
"- Lỗi này do Quốc phó Loan!
1000- Nay chú giao lại ngai vàng cho con!
quyết lòng đuổi giặc Tây Sơn
sớm khôi phục lại Nguyễn Hoàng cơ ngơi!”
Đăng quang Tân Chính Vương rồi
Chúa Tân tôn Thái Thượng ngôi cho Thuần
"Bính Thân triều Nguyễn Hai vương
ngàn cân sợi tóc tai ương dân lành”
* **
Nhắc qua chuyện Đỗ Thành Nhân
Chạy về Tam Phụ kiểm quân giận tràn
Bao năm giấc mộng Đông Sơn
1010- Chiêu binh mãi mã sáo đờn một phương
Vưà nhen ánh lửa quan trường
Vinh quang chưa nhận đau thương đã bày
Thù nầy quyết phải trả ngay
Cùng em- Nhân Trập ngày ngày ra công
Lại thêm Võ Tánh Võ Nhân
Là hai tuỳ tướng võ văn song toàn
Khu rừng Tam Phụ ầm vang
Ngựa người cung kiếm xoay ngang hướng thù
* **
Phương nam trời đất âm u
1020- Bóng đen thần chết vây mù lối sanh
" Một ngai hai chúa tung hoành
Nhường qua tôn lại cho xanh tiếng đời
Mà thân mục rữa rã rời
Ghì ôm cái nghiệp chơi vơi giữa giòng
Trời còn tháng nữa sang đông
Mưa to gió lớn phập phồng xiết bao
Lòng người lại những ngán ngao
Bầu trời lại những ánh sao lạc đường
* **
Mùa thu Đinh Dậu khẩn trương
1030- Tây Sơn Nguyễn Huệ dựng buồm Nam chinh
Thuyền xuôi hai vạn tinh binh
Cùng mười kiệt tướng oai linh ngút ngời
Cần giờ – cửa biển kia rồi
Đoàn thuyền ghé nghỉ định nơi chiến trường
Huệ giao: "Nguyễn Lữ tiên phuông
Đặng Văn Long phó xuôi đường Đồng Nai
Kèm theo mấy tướng anh tài
Xuân Phong, Xuân Bảo, …trương oai ứng tiền
Mục tiêu đánh chiếm Trấn Biên
1040- Xong phân ba cánh hướng liền ba nơi
Quét ra Bình Thuận một hơi
Chiếm Diên Khánh với ải ngoài Vân Phong!
Xuân Bảo theo hướng Sài Côn
Nghi binh đốt lửa chặn đường Cao Miên
Văn Tuyết, Văn Lộc sông Tiền
Tấn công vào cửa Hàm Luông, Trường Đồn
Vợ chồng Quang Diệu- Thị Xuân
Chia quân mai phục bít đường thoát ghe
Còn ta công phá Thị Nghè
1050- Phủ vây áp lực nặng nề Sài Côn
Cửa thành Nam lối giặc chuồn
Quân ta đã phục kín phương đó rồi!.. .”
Phân công đâu đó xong xuôi
Thực thi quân lệnh lòng người sôi reo
* **
Sài Côn hai chúa ngồi nheo
Vò đầu bóp trán càu nhàu thở ra
Bỗng về tin khẩn từ xa:
" Trấn Biên, Diên Khánh.. .Thành ta mất rồi!
Quân Tây Sơn bủa khắp nơi
1060- Thị Nghè thuyền chiến ngoài khơi đánh vào!.. .”
Tân vương truyền gọi Lý Tàu
Báo qua sơ bộ trước sau quân tình
Lý Tài dõng dạc phân minh
Rằng :”thần đã có kế binh cả rồi!.. .
nếu mà giặc áp sát nơi
quân ta bốn mặt quyết chơi tới cùng
tân Vương đừng quá hãi hùng!
cứ ngồi quan sát chờ mừng chiến công!”
Hai Vương nghe nói điếng hồn
1070- Âm thầm đêm tối lén chuồn cửa Nam
Vài mươi gia quyến cận thần
Len theo mương rạch hướng lần Tiền Giang
Lý Tài biết chuyện bàng hoàng
Hớt ha hớt hãi băng đàng tìm theo
Ngang qua Tam Phụ rừng đèo
Đông Sơn –Quân Đỗ đã neo sẵn rồi
Ôi thôi! Máu chảy, đầu rơi
Gần ngàn lính Hán xác phơi đầy đường
Lý Tài ngửa mặt rút gươm:
1080- "đời ta kết thúc như phường vô danh?
Bao năm bốn bể tung hoành!
Một giây cơ nghiệp tan tành khói mây!”
Than xong đâm ngực thác ngay
"Hồn lơ mơ gặp nơi này hôm qua
Oan hồn vây kín kêu la
Khiêng thây ông Lý treo ra bìa rừng "
Về phần chú cháu Tân Vương
Thuyền xuôi tới trấn Trường Đồn bị vây
Thị Xuân –Quang Diệu sẵn dây
1090- Tóm luôn cả tớ lẫn thầy trói gô
May sao Nguyễn Ánh chìm đò
Cùng em và mẹ trời cho sống còn
Ánh là anh ruột Định Vương
Vừa mười sáu tuổi mặt thon tay dài
Dáng người nhanh nhẹn khoan thai
Mắt long lanh ủ chí trai căng tròn
* **
Ba người dạt vào cồn con
Sát rừng Tam Phụ Đông Sơn luỹ đồn
Mấy tên lính Trập* đi tuần
1100- Bắt về giao Đỗ Thành Nhân chủ mình
Thoáng nhìn thấy vị cứu tinh
Ánh như vừa được hồi sinh trở về
Cùng nhau an ủi tỉ tê
Cố che đi nổi ủ ê rã rời
Sau ngày an dưỡng nghĩ ngơi
Ánh đem tâm sự Nghiệp trời triển khai
Viết thư mật báo trong ngoài:
"Tập trung bại tướng lạc loài nguồn cơn
Về rừng Tam Phụ- Đông Sơn
1110- Họp bàn cơ mật việc quân bây giờ!”
Bao nhiêu quân tướng bơ vơ
Nghe tin tìm đến chực chờ hai bên
"Gồm các tướng Lê Văn Quân,
Nguyễn Nghi, Tống Phúc Khuông, Lương và Hồ.. .”
Đồng lòng đổi cách xưng hô
Lập tôn Phúc Ánh cầm cờ Nguyễn Vương
Đỗ Thành Nhân phụ chính trường
Nhân Trập, Võ Tánh, Võ Nhân- hậu cần
Ngày đêm xây dựng cứ quân
1120- Giao lưu giáo sĩ Tây lần hướng ra
*Đỗ Nhân Trập em ruột Đỗ Thành Nhân
Đích thân qua nước Xiêm la
Vay quân mượn giáo về chà dân Nam
Một phen giáo sĩ bất an
Một phen Xiêm quốc kinh hoàng trang sau
* **
Chương 5
Tiếng hùng Nguyễn Huệ xôn xao
Quãng nam Gia định rạt rào chiến công
Ba quân quen giọng chuông đồng
Voi rừng qui phục dáng thần uy nghi
Điều binh khiển tướng diệu kì
1130- Giúp anh Nguyễn Nhạc xanh rì cơ ngơi
”Xót thầy giáo Hiến, quân sư
Lòng riêng nghiêng nặng cơ trời bôn ba”
”Đượm buồn phương Bắc trông xa
Thầm mong một mối nước nhà trâm anh
Nghẹn nhìn anh cả uy danh
Khó bề gom nỗi u minh lòng người
Trên vai chí cả thêm vời
Phương Nam lửa khói Đàng ngoài phong ba
Hai nơi đều nước non nhà
1140- Mà tình máu thịt lại là phần thân”,
”Mơ màng đâu đó hương lân
Như nghe đâu đó hoa xuân dáng kiều
Cuộc đời lắm lúc trớ trêu
Tình riêng râm rỉ cô liêu mỏi mòn
Thương hoài cô gái tên Sơn
Oái oăm thân phận chờn vờn nghiệp duyên
Biết đâu thuyền đậu bến hiền
Xua tan con sóng luỵ phiền trong hoa”
* **
" Còn nguyên giấc mộng Nam Kha
1150 - Cùng nàng Sơn thuở nhạt nhoà ước mơ
Mối tình đầu trắng như tơ
Mong manh như khói ngây thơ như Hằng
Có lần ấp ủ chiếu chăn
Núm hương đầu nụ trọc trằn chí trai
Thầm mong như liễu Chương Đài
Giữ xanh lời hẹn dặm dài nhánh xuân
Hay đâu giữa cuộc phong trần
Hồng nhan lạc phận tần ngần trúc mai
Quay lưng tháo gót, thay hài
1160- Bước theo số mệnh an bài phận duyên
Còn ta một gánh ưu phiền
Bâng khuâng yên ngựa khắp miền biên cương
Muốn quay ngắm chút nắng vườn
Muốn nhìn tận mặt để tường nét xưa
Mà sao trăng lạnh sương hờ
Xác xao tiếng lá, lơ ngơ bóng người
Ta đành khoá kín ngậm ngùi
Hoà ca chiến sự ngẫm cười lứa đôi
Mai kia đối mặt giữa đời
1170- Trong tim ta vẫn một lời khắc ghi
Trăm năm còn lại những gì
Bèo tan mây hiệp sinh ly tử lìa
Còn chăng một chút xẻ chia
Trăng tàn đọng giọt sương khuya ướt thềm
Vẽ thành một bức tranh đêm
Ghi thành ca khúc lời mềm như mây
Mang mang khắp nẻo bầu trời
Ngàn năm bàng bạc trên đầu thế nhân
Mới hay cái kiếp phong trần
1180- Thấy cao lại thấp thấy gần lại xa
Bây giờ còn lại mình ta
Đứng bên giòng nước quan hà lắng nghe!
* **
Từ ngày hồng kết tơ se
Lương nam- Sơn nữ xong bề lứa đôi
Nhìn con: ông giáo bồi hồi
Nhìn cha: hai trẻ nhắn lời nói riêng
Lòng Sơn như thả bên triền
Nửa lơ mơ tủi nửa liên miên sầu
Xót xa ôm giọt tình rơi
1190- Ngẩn ngơ nhìn mối tình đầu khói bay
Lòng Lương như ngất ngây say
Như trăng mừng nước như cây mừng mùa
Tối ngày âu yếm săm sua
Bỏ quên cả việc đền chùa đang xây
"Nói qua vài nét người này
Riêng nghề điêu khắc một tay há nhường
Lại thêm có khiếu văn chương
Nói năng hoạt bát múa đờn dẻo dai”
"Cũng xem là bậc anh tài!
1200- Nhiều lần Sơn nhắc: - anh Hai thôi mà!”
"Cũng từ cái tính ba hoa
Nên anh em Nhạc lo xa không dùng”
Qui nhơn gặp buổi tu trùng
Lê Lương được chọn đứng chưn công trình
Dựng thành Hoàng Đế xây dinh
Chạm rồng khắc hổ nắn hình vĩ nhân
Đăm chiêu, nắn nót, quanh quần
Đến nay công việc có phần thảnh thơi
Nhìn theo đường nét đã đời
1210- Vảy Rồng óng ả bệ Trời sáng trưng
Nhìn Lương chúa Nhạc lòng mừng
Giúp ông xoá nỗi ngập ngừng em trai
Chừng nghe ai đó thở dài
Chừng như tiếng vọng bi ai quan hà
* **
Từ ngày úp bóng gương nga
Lòng anh cả Nhạc xót xa đôi phần
Nhìn em những phút phân vân
Soi tìm trong đám quân thần gợi duyên
Cô Bùi - em út Đắc Tuyên
1220- Gia đình trước đã chiêu hiền ban sơ
Một thời Ngô Mãnh cậy nhờ
Diệu- Xuân, Văn Sở sinh đồ võ môn
Một thời Biện Nhạc Kiên đồn
Một thời Giáo Hiến tránh cơn hiểm nghèo
Tâm hồn cô Út trong veo
Tuổi tròn mười tám sắc giàu nét hoa
Người to dáng dấp như bà
Một ngày hôn lễ hai nhà keo sơn
Qua đêm hợp cẩn vài hôm
1230- Khánh thành cung điện Qui Nhơn Hoàng triều
Lập đàn Nguyễn Nhạc lên ngôi
Hiệu vua Thái Đức sáng ngời một phương
Long Nhương là Huệ tướng quân
Nghiệp đời đao kiếm quan trường bôn ba
Bụi hồng vó ngựa đường xa
Chiến bào khói đẫm quê nhà nguôi ngoai
Việc binh vốn sẵn thiên tài
Hành quân thần tốc trong ngoài đều e
* **
Cuối đời phủ chúa đắm mê
1240- Quân tình Trịnh Khải bốn bề rối ren
Thương thân cống Chỉnh chức hèn
Mà lòng thúc giục nắm quyền vẫy vung
Đêm nhìn sao định hướng phùng:
”Qui nhơn là chỗ ắt dung được mình”
Âm thầm cùng vợ con xinh
Lên thuyền rẽ sóng xô kình vào Nam
Nghe tin vua Nhạc động lòng
Đích thân ra đón nỗi mong tận bờ
Về dinh sắp lại ván cờ
1250- Dò nhau tìm nước quân cơ vén màn
Hai bên đắc ý cười tràn
”Thuỷ binh Đô Chỉnh”- chiếu ban trước triều
Lửa lòng Huệ cũng đang thiêu
Giục anh sớm quyết vượt đèo Hải Vân
Cơ trời nghiêng xuống đã gần
Long Nhương , Đô Chỉnh dàn quân tuyến đầu
* **
Trấn thành Thuận Hoá – Ngô Cầu
Vốn dòng họ Phạm từ lâu chí hèn
Hãm tài ám đức đã quen
1260- Hết thời phì nộn giăng đèn cầu an
Hầu xua hồn mộng ma Hoàng
Cả thành quân tướng lớp hàng vái thiên
Chừng nghe trống trận thầm thình
Quan binh hốt hoảng tưởng mình chiêm bao
Nhìn quanh thấy rực cờ đào
Quân Triều luống cuống thả đao qui hàng
Vài ngày tướng khoẻ, dân an
Người hiền, kẻ sĩ rộn ràng nhiều nơi
Nhà nho Văn Kỉ phùng thời
1270- Được Nhương mời đến giao coi trung đường
Một người chính trị văn chương
Một người sách lược chiến trường binh đao
Hai tâm hồn lộng cờ đào
Chung tay thêm trí điểm màu thời gian
Chiến bào nhuộm sắc vẻ vang
Lòng quân phơi phới lòng quan bồn chồn
Nhìn sang phương Bắc sâu hơn
Chỉnh bàn với Huệ:”- nên dồn đánh ra!
- thời cơ đang đến bên ta
1280 - Chỉ cần một trận, Bắc hà hỏng chân!”
Long Nhương lòng những phân vân:
”Nửa lo chí cả nửa ngần ngại anh
Thôi thì ta quyết cho nhanh
Tiến quân khẩn cấp chiếm thành Thăng long”
Lệnh truyền: ”- Đô đốc Phan Lân,
- cùng Vũ Văn Nhậm tiên phuông đường đèo,
- thuỷ binh Đô Chỉnh vòng theo
Vị hoàng kho thóc rồi neo thuyền chờ …
- thảo nhanh tờ hịch phò Lê…
1290 - gởi quân Vũ Nhậm chuyển về tay vua!
- trận này chắc chắn Trịnh thua
- quân ta thắng trận trước giờ tin Nam…! ”
Ba quân như thác xuôi ngàn
Tàn binh Trịnh Khải tìm đàng giấu thân
Cùng đường gặp bọn vong ân
Bày mưu bắt chúa tranh phần công lao
”Thương thay từng giọt máu trào
Nhầy bàn tay uất xuôi vào thiên thu”
Cửa Nam thành dạt khói mù
1300- Vua Lê ra đón từ từ cờ trương
Khao quân lòng Huệ đượm buồn
Mắt vua Thái Đức giận còn vói theo
* **
Soi lòng thế trận trong veo
Hầu mong kẻ sĩ Bắc triều thiết tha
Chớp thời Hữu Chỉnh lân la
Bày mưu hiến kế theo đà lập công
Trăng vàng cung cấm qua song
Cửa vua Lê Hiến Tông lồng trước sân
Kiều hoa nhón gót- Ngọc Hân
1310- Giọt trăng rơi ướt tóc xuân mượt mà
Huệ còn lặng trước gương nga
”Lòng phân vân nỗi phương xa bời bời:
”Nhơn tình lắm cảnh trêu ngươi
”Ân tình bao chuyện khóc cười thị phi!”
”Lời tình vọng tiếng thầm thì
”Đời tình mấy chặng đường đi bụi hồng?”
Lao xao sóng dậy tơ lòng
Anh hùng nhi nữ sáng trong ánh tình
Ngoài kia trăng đã buông mành
1320- Giữa hai hồn đã gặp mình trong liêu:
"Phải đâu hồn mộng Thuý Kiều
Phải đâu Từ Hải một chiều thanh lâu
Phải đâu đứng dưới chân cầu
Bốn tay chờ nắm hai đầu sóng xa?”
Nàng rằng:” vọng mãi âm ba
Biết nhau trong mộng mặn mà từ đây
Đời xưa hoá kiếp đời nay
Anh hùng hào kiệt thêm dày nhớ quên
Huệ cười: "Duyên phận do thiên
1330- Ta nào nghĩ chuyện thuyền quyên anh hùng
Hoa xuân hương sắc não nùng
Tấm lòng nhi nữ nghe hừng chí trai!
Sợ đau hai chữ sắc tài
Uổng công lướt khúc dặm dài không tên!”
Nàng rằng: "đã trót chữ duyên
Tự thân nhận được phỉ nguyền ba sinh
Giờ thêm thắm đậm chữ tình
Trăm năm xin khắc hai mình một ta
Trăm năm mong một mái nhà
1340- Cùng người san sẻ sơn hà chung lưng
Ngày mai mỏi bước phong trần
Gác tay mặc niệm chữ tâm đời thường
Hoà theo khúc nhạc dặm trường
Nhập vào nhân ảnh bao chương ngắn dài!”
Long lanh mắt Huệ khôi hài
Làm xanh dòng chảy giữa hai bờ tình:
"Ngáp dài một giấc phù sinh
Tỉnh ra mới biết rằng mình là ta
Loay hoay trên dưới ngôi nhà
1350- Sớm khuya cho nhận vào ra lưng đầy
Có đêm trằn trọc canh chầy
Sau cơn ác mộng cõi này mà kinh
Hiếm hoi thay một chữ tình
Xót xa thay, hởi chữ trinh cuộc đời
Nào đâu son kẻ, phấn dồi
Mênh mông biết mấy sụt sùi cỏn con”
***
Nhắc qua Thầy Hiến- quân sư
Từ khi Phúc Chất ra đi không về
Lòng ông chủ Nhạc như tê
Mối ngờ đậm nét lòng mê nhạt nhoà
Nhạc mời Hiến về khu nhà
Cách Qui Nhơn phủ hăm ba dặm triền
Có cây trái, có hoa viên
910- Gọi là ân nghĩa suốt liền bao năm
Nơi đây không khí tươi hồng
Gần sông suối trước ruộng đồng mát xanh
Nhìn cơ ngơi mới ngọt lành
Lòng thầy giáo Hiến lạnh tanh lụi tàn
Nhìn cô con gái mới đang
"Như nghe vọng nỗi bàng hoàng xót xa
-lòng trung dẫn tới đây à?
Hay ta tuổi đã quá già rồi sao?
Hay do trời đất ba đào
920- Nổi cơn thịnh nộ ào ào càn khôn
Hay từ hai chữ vuông tròn
Muốn cho người biết tiếng thơm quan trường”
Nhìn con hai đứa mà thương
Trong đôi mắt chúng như dường băn khoăn
"Thầy nghe bao nỗi trọc trằn
Bỗng như ai quất vết hằn vào tim
Hồn như đang có ai dìm
Ngất ngư giữa một nỗi niềm trống không”
Nhìn ra trước mặt cánh đồng
930- Nhìn xa xa ấy núi sông kia mà
Nhìn lên trời khói mây là
Nhìn xuống đất thấy một toà cơ ngơi
Hay đây đã định ý trời
Để ta an nghĩ khoảnh đời không đâu?”
Thằng anh:”nó lớn thật rồi!
Đứa con ta nhận từ lâu tay người
Vợ chồng chăm chút dưỡng nuôi
Thông minh nhanh lẹ nói cười dễ thương
Dòng này vốn gốc thư hương
940- Quan trường chém giết tai ương ba đời
Nó về nhằm vợ đẻ rơi
Con Hoài Sơn cũng chào đời oa oa
Tin đồn đây đó gần xa
Song sinh một cặp nơi nhà giáo Trương
Con trai tên Hoài Lê Lương
Con gái là Thị Hoài Sơn bây giờ
Hai mươi năm một giấc mơ
Đời người trôi nổi bến bờ bão giông
Bà Trương ngắn số thờ chồng
950- Ba năm trước, nghiệp má hồng xoá tên
Giờ còn đôi trẻ đứng bên
Ta còn tỉnh táo phải nên tính liền!
Biết đâu mai mốt hoá điên?
Bơ vơ đôi trẻ nghiệp duyên sao đành!
Cùng con nhắc lại ngọn nghành
Rồi nhờ Chủ Nhạc tác thành lứa đôi
* **
Ngày hôn lễ trước mắt rồi
Chờ người tri kỉ nói lời chia xa
Ngày đêm ràn rụa mắt hoa
960- Tàng trăng dõi bước quan hà ngóng tin
Lời về hai tiếng im lìm
Lời đi từng giọt lệ tim canh tàn
Giữa ngày pháo nổ hoa giăng
Mối tình đầu đã vĩnh hằng nơi đây
Trời cao biển rộng đất dày
Trăm năm khoanh lại một ngày đớn đau
* **
Quay qua ông tướng Lý Tàu
Gần ngàn lính thuỷ ra vào cửa Đông
Từ ngày biến mất Tập Đình
970- Lại buồn chúa Nhạc xem mình hồ nghi
Bao lần ông gắng níu trì
Cố tìm ra hướng? lối đi mịt mù!
Nghe tin Thế tử Dương tu
Ở chùa Thập Tháp liền ù vào thăm
Hai bên to nhỏ thì thầm
Một đêm trời tối biệt tăm tớ thầy
Thuận buồm theo gió heo may
Xuôi Nam một mạch vào ngay Thị Nghè
Mượn đồn đóng trại dựng cờ
980- Phúc Dương thư khẩn ngồi chờ Định Vương
Sự đời lắm lúc khó lường
Thành Nhân giấu Chúa để trườn tay trên
"Cho rằng: gian kế Tây Sơn
Lý Tài là giặc ta nên đề phòng”
Hai bên vào trận thư hùng
Phúc Dương qui tụ phần đông tướng nhà
Năm ngàn quân lính dàn ra
Sài Côn bị hãm xót xa tớ thầy
Thẳng căng hơn quá ba ngày
990- Thành Nhân đành rút ra ngoài rừng Tam
Quân Tài mai phục sau làng
Ào ra chém giết, Thành Nhân rụng rời
Cả ngàn binh sĩ đầu rơi
Một kho lương thảo đi đời nhà ma
Nhìn cơ nghiệp những xót xa
Thành Nhân nén lệ cố nhoà cơn đau
Vào thành cháu chú nhìn nhau
Phúc Dương thế tử ngẩng đầu đăng quang
"- Lỗi này do Quốc phó Loan!
1000- Nay chú giao lại ngai vàng cho con!
quyết lòng đuổi giặc Tây Sơn
sớm khôi phục lại Nguyễn Hoàng cơ ngơi!”
Đăng quang Tân Chính Vương rồi
Chúa Tân tôn Thái Thượng ngôi cho Thuần
"Bính Thân triều Nguyễn Hai vương
ngàn cân sợi tóc tai ương dân lành”
* **
Nhắc qua chuyện Đỗ Thành Nhân
Chạy về Tam Phụ kiểm quân giận tràn
Bao năm giấc mộng Đông Sơn
1010- Chiêu binh mãi mã sáo đờn một phương
Vưà nhen ánh lửa quan trường
Vinh quang chưa nhận đau thương đã bày
Thù nầy quyết phải trả ngay
Cùng em- Nhân Trập ngày ngày ra công
Lại thêm Võ Tánh Võ Nhân
Là hai tuỳ tướng võ văn song toàn
Khu rừng Tam Phụ ầm vang
Ngựa người cung kiếm xoay ngang hướng thù
* **
Phương nam trời đất âm u
1020- Bóng đen thần chết vây mù lối sanh
" Một ngai hai chúa tung hoành
Nhường qua tôn lại cho xanh tiếng đời
Mà thân mục rữa rã rời
Ghì ôm cái nghiệp chơi vơi giữa giòng
Trời còn tháng nữa sang đông
Mưa to gió lớn phập phồng xiết bao
Lòng người lại những ngán ngao
Bầu trời lại những ánh sao lạc đường
* **
Mùa thu Đinh Dậu khẩn trương
1030- Tây Sơn Nguyễn Huệ dựng buồm Nam chinh
Thuyền xuôi hai vạn tinh binh
Cùng mười kiệt tướng oai linh ngút ngời
Cần giờ – cửa biển kia rồi
Đoàn thuyền ghé nghỉ định nơi chiến trường
Huệ giao: "Nguyễn Lữ tiên phuông
Đặng Văn Long phó xuôi đường Đồng Nai
Kèm theo mấy tướng anh tài
Xuân Phong, Xuân Bảo, …trương oai ứng tiền
Mục tiêu đánh chiếm Trấn Biên
1040- Xong phân ba cánh hướng liền ba nơi
Quét ra Bình Thuận một hơi
Chiếm Diên Khánh với ải ngoài Vân Phong!
Xuân Bảo theo hướng Sài Côn
Nghi binh đốt lửa chặn đường Cao Miên
Văn Tuyết, Văn Lộc sông Tiền
Tấn công vào cửa Hàm Luông, Trường Đồn
Vợ chồng Quang Diệu- Thị Xuân
Chia quân mai phục bít đường thoát ghe
Còn ta công phá Thị Nghè
1050- Phủ vây áp lực nặng nề Sài Côn
Cửa thành Nam lối giặc chuồn
Quân ta đã phục kín phương đó rồi!.. .”
Phân công đâu đó xong xuôi
Thực thi quân lệnh lòng người sôi reo
* **
Sài Côn hai chúa ngồi nheo
Vò đầu bóp trán càu nhàu thở ra
Bỗng về tin khẩn từ xa:
" Trấn Biên, Diên Khánh.. .Thành ta mất rồi!
Quân Tây Sơn bủa khắp nơi
1060- Thị Nghè thuyền chiến ngoài khơi đánh vào!.. .”
Tân vương truyền gọi Lý Tàu
Báo qua sơ bộ trước sau quân tình
Lý Tài dõng dạc phân minh
Rằng :”thần đã có kế binh cả rồi!.. .
nếu mà giặc áp sát nơi
quân ta bốn mặt quyết chơi tới cùng
tân Vương đừng quá hãi hùng!
cứ ngồi quan sát chờ mừng chiến công!”
Hai Vương nghe nói điếng hồn
1070- Âm thầm đêm tối lén chuồn cửa Nam
Vài mươi gia quyến cận thần
Len theo mương rạch hướng lần Tiền Giang
Lý Tài biết chuyện bàng hoàng
Hớt ha hớt hãi băng đàng tìm theo
Ngang qua Tam Phụ rừng đèo
Đông Sơn –Quân Đỗ đã neo sẵn rồi
Ôi thôi! Máu chảy, đầu rơi
Gần ngàn lính Hán xác phơi đầy đường
Lý Tài ngửa mặt rút gươm:
1080- "đời ta kết thúc như phường vô danh?
Bao năm bốn bể tung hoành!
Một giây cơ nghiệp tan tành khói mây!”
Than xong đâm ngực thác ngay
"Hồn lơ mơ gặp nơi này hôm qua
Oan hồn vây kín kêu la
Khiêng thây ông Lý treo ra bìa rừng "
Về phần chú cháu Tân Vương
Thuyền xuôi tới trấn Trường Đồn bị vây
Thị Xuân –Quang Diệu sẵn dây
1090- Tóm luôn cả tớ lẫn thầy trói gô
May sao Nguyễn Ánh chìm đò
Cùng em và mẹ trời cho sống còn
Ánh là anh ruột Định Vương
Vừa mười sáu tuổi mặt thon tay dài
Dáng người nhanh nhẹn khoan thai
Mắt long lanh ủ chí trai căng tròn
* **
Ba người dạt vào cồn con
Sát rừng Tam Phụ Đông Sơn luỹ đồn
Mấy tên lính Trập* đi tuần
1100- Bắt về giao Đỗ Thành Nhân chủ mình
Thoáng nhìn thấy vị cứu tinh
Ánh như vừa được hồi sinh trở về
Cùng nhau an ủi tỉ tê
Cố che đi nổi ủ ê rã rời
Sau ngày an dưỡng nghĩ ngơi
Ánh đem tâm sự Nghiệp trời triển khai
Viết thư mật báo trong ngoài:
"Tập trung bại tướng lạc loài nguồn cơn
Về rừng Tam Phụ- Đông Sơn
1110- Họp bàn cơ mật việc quân bây giờ!”
Bao nhiêu quân tướng bơ vơ
Nghe tin tìm đến chực chờ hai bên
"Gồm các tướng Lê Văn Quân,
Nguyễn Nghi, Tống Phúc Khuông, Lương và Hồ.. .”
Đồng lòng đổi cách xưng hô
Lập tôn Phúc Ánh cầm cờ Nguyễn Vương
Đỗ Thành Nhân phụ chính trường
Nhân Trập, Võ Tánh, Võ Nhân- hậu cần
Ngày đêm xây dựng cứ quân
1120- Giao lưu giáo sĩ Tây lần hướng ra
*Đỗ Nhân Trập em ruột Đỗ Thành Nhân
Đích thân qua nước Xiêm la
Vay quân mượn giáo về chà dân Nam
Một phen giáo sĩ bất an
Một phen Xiêm quốc kinh hoàng trang sau
* **
Chương 5
Tiếng hùng Nguyễn Huệ xôn xao
Quãng nam Gia định rạt rào chiến công
Ba quân quen giọng chuông đồng
Voi rừng qui phục dáng thần uy nghi
Điều binh khiển tướng diệu kì
1130- Giúp anh Nguyễn Nhạc xanh rì cơ ngơi
”Xót thầy giáo Hiến, quân sư
Lòng riêng nghiêng nặng cơ trời bôn ba”
”Đượm buồn phương Bắc trông xa
Thầm mong một mối nước nhà trâm anh
Nghẹn nhìn anh cả uy danh
Khó bề gom nỗi u minh lòng người
Trên vai chí cả thêm vời
Phương Nam lửa khói Đàng ngoài phong ba
Hai nơi đều nước non nhà
1140- Mà tình máu thịt lại là phần thân”,
”Mơ màng đâu đó hương lân
Như nghe đâu đó hoa xuân dáng kiều
Cuộc đời lắm lúc trớ trêu
Tình riêng râm rỉ cô liêu mỏi mòn
Thương hoài cô gái tên Sơn
Oái oăm thân phận chờn vờn nghiệp duyên
Biết đâu thuyền đậu bến hiền
Xua tan con sóng luỵ phiền trong hoa”
* **
" Còn nguyên giấc mộng Nam Kha
1150 - Cùng nàng Sơn thuở nhạt nhoà ước mơ
Mối tình đầu trắng như tơ
Mong manh như khói ngây thơ như Hằng
Có lần ấp ủ chiếu chăn
Núm hương đầu nụ trọc trằn chí trai
Thầm mong như liễu Chương Đài
Giữ xanh lời hẹn dặm dài nhánh xuân
Hay đâu giữa cuộc phong trần
Hồng nhan lạc phận tần ngần trúc mai
Quay lưng tháo gót, thay hài
1160- Bước theo số mệnh an bài phận duyên
Còn ta một gánh ưu phiền
Bâng khuâng yên ngựa khắp miền biên cương
Muốn quay ngắm chút nắng vườn
Muốn nhìn tận mặt để tường nét xưa
Mà sao trăng lạnh sương hờ
Xác xao tiếng lá, lơ ngơ bóng người
Ta đành khoá kín ngậm ngùi
Hoà ca chiến sự ngẫm cười lứa đôi
Mai kia đối mặt giữa đời
1170- Trong tim ta vẫn một lời khắc ghi
Trăm năm còn lại những gì
Bèo tan mây hiệp sinh ly tử lìa
Còn chăng một chút xẻ chia
Trăng tàn đọng giọt sương khuya ướt thềm
Vẽ thành một bức tranh đêm
Ghi thành ca khúc lời mềm như mây
Mang mang khắp nẻo bầu trời
Ngàn năm bàng bạc trên đầu thế nhân
Mới hay cái kiếp phong trần
1180- Thấy cao lại thấp thấy gần lại xa
Bây giờ còn lại mình ta
Đứng bên giòng nước quan hà lắng nghe!
* **
Từ ngày hồng kết tơ se
Lương nam- Sơn nữ xong bề lứa đôi
Nhìn con: ông giáo bồi hồi
Nhìn cha: hai trẻ nhắn lời nói riêng
Lòng Sơn như thả bên triền
Nửa lơ mơ tủi nửa liên miên sầu
Xót xa ôm giọt tình rơi
1190- Ngẩn ngơ nhìn mối tình đầu khói bay
Lòng Lương như ngất ngây say
Như trăng mừng nước như cây mừng mùa
Tối ngày âu yếm săm sua
Bỏ quên cả việc đền chùa đang xây
"Nói qua vài nét người này
Riêng nghề điêu khắc một tay há nhường
Lại thêm có khiếu văn chương
Nói năng hoạt bát múa đờn dẻo dai”
"Cũng xem là bậc anh tài!
1200- Nhiều lần Sơn nhắc: - anh Hai thôi mà!”
"Cũng từ cái tính ba hoa
Nên anh em Nhạc lo xa không dùng”
Qui nhơn gặp buổi tu trùng
Lê Lương được chọn đứng chưn công trình
Dựng thành Hoàng Đế xây dinh
Chạm rồng khắc hổ nắn hình vĩ nhân
Đăm chiêu, nắn nót, quanh quần
Đến nay công việc có phần thảnh thơi
Nhìn theo đường nét đã đời
1210- Vảy Rồng óng ả bệ Trời sáng trưng
Nhìn Lương chúa Nhạc lòng mừng
Giúp ông xoá nỗi ngập ngừng em trai
Chừng nghe ai đó thở dài
Chừng như tiếng vọng bi ai quan hà
* **
Từ ngày úp bóng gương nga
Lòng anh cả Nhạc xót xa đôi phần
Nhìn em những phút phân vân
Soi tìm trong đám quân thần gợi duyên
Cô Bùi - em út Đắc Tuyên
1220- Gia đình trước đã chiêu hiền ban sơ
Một thời Ngô Mãnh cậy nhờ
Diệu- Xuân, Văn Sở sinh đồ võ môn
Một thời Biện Nhạc Kiên đồn
Một thời Giáo Hiến tránh cơn hiểm nghèo
Tâm hồn cô Út trong veo
Tuổi tròn mười tám sắc giàu nét hoa
Người to dáng dấp như bà
Một ngày hôn lễ hai nhà keo sơn
Qua đêm hợp cẩn vài hôm
1230- Khánh thành cung điện Qui Nhơn Hoàng triều
Lập đàn Nguyễn Nhạc lên ngôi
Hiệu vua Thái Đức sáng ngời một phương
Long Nhương là Huệ tướng quân
Nghiệp đời đao kiếm quan trường bôn ba
Bụi hồng vó ngựa đường xa
Chiến bào khói đẫm quê nhà nguôi ngoai
Việc binh vốn sẵn thiên tài
Hành quân thần tốc trong ngoài đều e
* **
Cuối đời phủ chúa đắm mê
1240- Quân tình Trịnh Khải bốn bề rối ren
Thương thân cống Chỉnh chức hèn
Mà lòng thúc giục nắm quyền vẫy vung
Đêm nhìn sao định hướng phùng:
”Qui nhơn là chỗ ắt dung được mình”
Âm thầm cùng vợ con xinh
Lên thuyền rẽ sóng xô kình vào Nam
Nghe tin vua Nhạc động lòng
Đích thân ra đón nỗi mong tận bờ
Về dinh sắp lại ván cờ
1250- Dò nhau tìm nước quân cơ vén màn
Hai bên đắc ý cười tràn
”Thuỷ binh Đô Chỉnh”- chiếu ban trước triều
Lửa lòng Huệ cũng đang thiêu
Giục anh sớm quyết vượt đèo Hải Vân
Cơ trời nghiêng xuống đã gần
Long Nhương , Đô Chỉnh dàn quân tuyến đầu
* **
Trấn thành Thuận Hoá – Ngô Cầu
Vốn dòng họ Phạm từ lâu chí hèn
Hãm tài ám đức đã quen
1260- Hết thời phì nộn giăng đèn cầu an
Hầu xua hồn mộng ma Hoàng
Cả thành quân tướng lớp hàng vái thiên
Chừng nghe trống trận thầm thình
Quan binh hốt hoảng tưởng mình chiêm bao
Nhìn quanh thấy rực cờ đào
Quân Triều luống cuống thả đao qui hàng
Vài ngày tướng khoẻ, dân an
Người hiền, kẻ sĩ rộn ràng nhiều nơi
Nhà nho Văn Kỉ phùng thời
1270- Được Nhương mời đến giao coi trung đường
Một người chính trị văn chương
Một người sách lược chiến trường binh đao
Hai tâm hồn lộng cờ đào
Chung tay thêm trí điểm màu thời gian
Chiến bào nhuộm sắc vẻ vang
Lòng quân phơi phới lòng quan bồn chồn
Nhìn sang phương Bắc sâu hơn
Chỉnh bàn với Huệ:”- nên dồn đánh ra!
- thời cơ đang đến bên ta
1280 - Chỉ cần một trận, Bắc hà hỏng chân!”
Long Nhương lòng những phân vân:
”Nửa lo chí cả nửa ngần ngại anh
Thôi thì ta quyết cho nhanh
Tiến quân khẩn cấp chiếm thành Thăng long”
Lệnh truyền: ”- Đô đốc Phan Lân,
- cùng Vũ Văn Nhậm tiên phuông đường đèo,
- thuỷ binh Đô Chỉnh vòng theo
Vị hoàng kho thóc rồi neo thuyền chờ …
- thảo nhanh tờ hịch phò Lê…
1290 - gởi quân Vũ Nhậm chuyển về tay vua!
- trận này chắc chắn Trịnh thua
- quân ta thắng trận trước giờ tin Nam…! ”
Ba quân như thác xuôi ngàn
Tàn binh Trịnh Khải tìm đàng giấu thân
Cùng đường gặp bọn vong ân
Bày mưu bắt chúa tranh phần công lao
”Thương thay từng giọt máu trào
Nhầy bàn tay uất xuôi vào thiên thu”
Cửa Nam thành dạt khói mù
1300- Vua Lê ra đón từ từ cờ trương
Khao quân lòng Huệ đượm buồn
Mắt vua Thái Đức giận còn vói theo
* **
Soi lòng thế trận trong veo
Hầu mong kẻ sĩ Bắc triều thiết tha
Chớp thời Hữu Chỉnh lân la
Bày mưu hiến kế theo đà lập công
Trăng vàng cung cấm qua song
Cửa vua Lê Hiến Tông lồng trước sân
Kiều hoa nhón gót- Ngọc Hân
1310- Giọt trăng rơi ướt tóc xuân mượt mà
Huệ còn lặng trước gương nga
”Lòng phân vân nỗi phương xa bời bời:
”Nhơn tình lắm cảnh trêu ngươi
”Ân tình bao chuyện khóc cười thị phi!”
”Lời tình vọng tiếng thầm thì
”Đời tình mấy chặng đường đi bụi hồng?”
Lao xao sóng dậy tơ lòng
Anh hùng nhi nữ sáng trong ánh tình
Ngoài kia trăng đã buông mành
1320- Giữa hai hồn đã gặp mình trong liêu:
"Phải đâu hồn mộng Thuý Kiều
Phải đâu Từ Hải một chiều thanh lâu
Phải đâu đứng dưới chân cầu
Bốn tay chờ nắm hai đầu sóng xa?”
Nàng rằng:” vọng mãi âm ba
Biết nhau trong mộng mặn mà từ đây
Đời xưa hoá kiếp đời nay
Anh hùng hào kiệt thêm dày nhớ quên
Huệ cười: "Duyên phận do thiên
1330- Ta nào nghĩ chuyện thuyền quyên anh hùng
Hoa xuân hương sắc não nùng
Tấm lòng nhi nữ nghe hừng chí trai!
Sợ đau hai chữ sắc tài
Uổng công lướt khúc dặm dài không tên!”
Nàng rằng: "đã trót chữ duyên
Tự thân nhận được phỉ nguyền ba sinh
Giờ thêm thắm đậm chữ tình
Trăm năm xin khắc hai mình một ta
Trăm năm mong một mái nhà
1340- Cùng người san sẻ sơn hà chung lưng
Ngày mai mỏi bước phong trần
Gác tay mặc niệm chữ tâm đời thường
Hoà theo khúc nhạc dặm trường
Nhập vào nhân ảnh bao chương ngắn dài!”
Long lanh mắt Huệ khôi hài
Làm xanh dòng chảy giữa hai bờ tình:
"Ngáp dài một giấc phù sinh
Tỉnh ra mới biết rằng mình là ta
Loay hoay trên dưới ngôi nhà
1350- Sớm khuya cho nhận vào ra lưng đầy
Có đêm trằn trọc canh chầy
Sau cơn ác mộng cõi này mà kinh
Hiếm hoi thay một chữ tình
Xót xa thay, hởi chữ trinh cuộc đời
Nào đâu son kẻ, phấn dồi
Mênh mông biết mấy sụt sùi cỏn con”
***
Ngày hôn lễ rực trướng loan
Thuyền quyên sánh bước Tây sơn anh hùng
Đất trời hoà nhịp vui chung
1360- Thăng Long mở hội tưng bừng như mơ
Ngọc Hân lòng dạ ngây thơ:
”- Chữ ân tình – nguyện tóc tơ đáp đền!”
Huệ cười, nắm lấy tay tiên:
”- Nhờ công quan Chỉnh nối liền Bắc Nam
- Ta còn bao việc phải làm
- ngặt vì một nỗi vua Nam bất bình
- Đàng trong chưa hết đao binh
- Đàng ngoài dân chúng nội tình lo âu
- Bắc Hà không ở được lâu
1370 - chờ vua Nam định, nàng sầu muộn chi…!”
Ngọc Hân rớt giọt thầm thì:
”- một lời chàng đã, thiếp ghi tạc lòng
- kiếp này phận thiếp chỉ mong
- chàng nên nghiệp lớn từ lòng dân ta
- mai kia thống nhất sơn hà
- xin chàng hãy nhớ lời hoa tỏ bày!”
***
Chương 6
Thời gian hạt nước kẻ tay
Lo toan bao việc thêm dày nỗi mong
Hiển Tông hồn bước qua song
1380- Hoàng tôn tài mọn đèo bòng khó khuây
Đành theo ý lũ mặt dày
Lập vua Chiêu Thống làm tay chống chèo
Thuyền buồm cánh gió xuôi theo
Lòng dân dò bước sớm chiều mặn cay
Nỗi lo chưa trút đã đầy
Hai phương dồn lại khoảnh ngày tí teo
Ngọt ngào chưa chín sơn keo
Vua Nam Thái Đức đã vèo ở bên
Tình nhà nghĩa nước thênh thênh
1390- Lòng Nhương đứng giữa chênh vênh chần chừ
Thoáng qua đâu đó tiếng” ừ ”
Lại thêm hai tiếng "từ từ” đi theo
Giật mình ngó trước nhìn sau
Hai đầu vó ngựa trên cầu chiêm bao
Cùng anh cạn đĩa dầu hao
Tỏ bày không đặng càng ngao ngán lòng
Phải đành gút mối tơ đồng
Dây xuân thêm chặt sợi hồng càng son
Ngoái nhìn thành quách chon von
1400- ”Thương thân quan Chỉnh đang còn giấc say
”Đời xưa ai biết chuyện này
”Đời sau ai nhớ đời nay ai tường
”Nghiệp đời Hữu Chỉnh còn vương
”Nên thân nợ vẫn còn nương để chờ”
Tỉnh hồn từ trước tinh mơ
Cha con bôn tẩu theo cờ vua Nam
Gặp nhau Chỉnh – Nhạc cười tràn:
”- Giao ông Chỉnh đất Nghệ an xây thành!”
”- Đáng gờm một bậc tài danh!”
1410 - Băn khoăn lòng Huệ nhập nhằng mối lo:
”Lại thương một phận liễu bồ
”Theo ta nàng dệt bức mơ hiếu tình
”Gam màu tấm lụa phù sinh
”Bàn tay thục nữ sợi tình véo von”
Bên tai vó ngựa câu giòn
Phú Xuân thoáng hiện nước non luỹ thành
”Quyết lòng giấc mộng ba sinh
Sơn hà một cõi cung đình là nơi”
Bâng khuâng cảnh cũng như người
1420- Gặp nơi kì ngộ khó dời chân đi
Một vùng đất nước kiêu kì
Sông thanh núi biếc thầm thì biển dâu
Chừng như hoá giải cơn sầu
Chừng như thanh thoát cái màu trớ trêu
Theo bên tướng giỏi phần nhiều
Nhìn Nhương như muốn nói điều xả thân
Từ Long, Quang Diệu-Thị Xuân
Văn Dũng, Tú, Tuyết, Sở, Lân, Lộc, và…
Quân tình nhấp nhổm, nhấp nha
1430- Vua anh Thái Đức xót xa hồi triều
* **
Về cung lòng nóng như thiêu
Vua Nhạc truyền buổi thiết triều khẩn trương
Hai hàng văn võ cúi buồn
Vương Thung – mưu sĩ tìm phương sách hoà
Không ngờ trúng kế quân ngoa
Anh em – cái hố bất hoà thêm sâu
Lòng vua chất nặng gánh sầu
Một phen trằn trọc ba hồi ngẩn ngơ
Bọn gian chìa mỏ chực chờ
1440- Xui vua giam tất người nhà quan Nhương
Lại thêm một khúc đoạn trường
Nhồi da xáo thịt đẫm chương sử hồng
Thành Hoàng đế những ngày đông
Cửa đầm Thị nại gió giông ngất trời
Cánh buồm chưa vượt xa khơi
Mà trong khoang đã rệu rời cột cây
* **
Sau hơn một tháng đông đầy
Xác xao vườn mẹ hao gầy cành con
Ì ầm đại bác đầu non
1450- Ầm ào sóng dữ ngoài cồn sục sôi
Phương Nam Nguyễn Ánh đổi đời
Sông Gầm, Rạch giá nối lời Tiền giang
Sài côn Gia định ngổn ngang
Lòng dân giữa ngả ba đàng phân vân
Cuối cùng nhờ tiếng Mẫu thân
Nỗi đau máu thịt như lần dịu đi
Anh em xoá mối hiềm tì
Vương Thung mưu sĩ viết di chiếu hoà:
”Phân chia ranh giới làm ba
1460- Trung ương Hoàng đế phủ là Qui nhơn
Phía Nam từ ải Vân Phong
Vào Thành Gia định Lữ Vương nắm quyền
Phía Bắc, Bến ván vùng biên
Bắc Bình Vương Huệ nối liền Nghệ an”
Khoanh chia đâu đó rõ ràng
Một hồi trống lịnh rút quân ra ngoài
Đông tàn lòng cũng nguôi ngoai
Đường về Thuận hoá cành mai rụng mùa
* **
Nhắc qua chuyện trước không thừa
1470- Cha con Hữu Chỉnh như vừa tỉnh ra
Ngược dòng lái cuộc phong ba
Chiêu binh mãi mã xót xa trăm bề
Một thân gánh nghiệp hai quê
Nghệ An canh cánh cửa về Thăng Long
Lòng trời xuôi thuận nỗi mong
Lê Chiêu gọi Chỉnh thong dong quay thuyền
Bắc hà cơ hội dấy lên
Tiếng vang quan Chỉnh nghe rền Phú Xuân
Lòng tham nào có điểm dừng
1480- Lòng ngay nhừ mõi đôi chân đời người
Phương Nam quân Nguyễn khắp nơi
Sóng khơi dòng chảy đỏ ngầu Tiền giang
Lại thêm bọn giặc Tây Dương
Thuyền to súng lớn mở đường đánh ra
Xác xao khốn đốn muôn nhà
Nam bình vương Lữ nhụt xa quay về
Bàng hoàng vua Nhạc tỉnh mê
Sai con vời chú Huệ về sửa sang
Bắc Bình Vương đã sẵn sàng
1490- Ngặt vì Phương Bắc ngai vàng lung lay
Quan tham tá Chỉnh dài tay
Học theo sách Trịnh vẽ mày lấn sân
Bày mưu chiếm giữ Nghệ an
Cử Trần Công Xán, sứ quan thỉnh cầu
Hoàng thân Duy Án dẫn đầu
Vào bàn thượng nghị mượn lời ba hoa
Mĩm cười, Vương sực nghĩ ra :
”- Rõ rồi ! Lão Chỉnh đúng là phường gian
- dụ ông Huỳnh Đức- tướng hàng
1500- lập bè kết đảng mưu toan ý đồ”
Thất thần, Duy Án cầu cô
Mong tình nhi nữ mở cờ cứu nguy
Ngọc Hân lòng nặng lễ nghi
Bên tình bên hiếu nói gì cho xuôi:
”Lòng như thêm nặng nỗi ngùi
”Tâm như vô cảm nụ cười như ngây
”Âm thầm đứng tựa song mây
”Lòng riêng ai biết nỗi này ai thông
”Trần gian sao lắm bụi hồng
1510- ”Trăm năm một chữ tơ đồng trêu ngươi”
* **
Tan sương mất hút bóng người
Bờ xa thuyền sứ còn tươi nỗi ngờ
Nghe trào tiếng thét ngẩn ngơ
Dạt dòng máu uất ngái bờ đau thương
Hồn oan rẽ lối vô thường
Lang thang mù mịt vấn vương cõi người
”Cành đào mới đấy đỏ tươi
”Cành mai nhớ thuở vàng rươi sắc hùng
”Chừ thì tất cả mông lung
1520- ”Hai bờ quan tái lạnh lùng xiết bao!”
Trước gương ngấn lệ tuôn trào
Sau gương những mảng máu đào còn tanh
Đoạn trường oanh, đoạn trường thanh
Đoạn trường phương thảo héoxanh bãi dày
”Trăm năm có được mấy ngày
”Sướng vui đau đớn nhốt đầy gương nga
”Trăm năm được mấy ngôi nhà
”Sau trăm năm đó ai đà có nghe
”Bàng hoàng nhìn ngựa kéo ghe
1530- ”Nhìn sông ngược núi nhìn xe thồ đường
”Trời xa biển rộng sao lường
”Thôi thì ta cứ con đường đã quen
”Mong đời bớt chút bon chen
”Mai về cố quận hờn ghen nỗi gì”
***
Từ Vương tiển sứ ra đi
Tơ lòng mấy khúc tình si mấy bờ
Rồi nàng cúi mặt làm ngơ
Rồi nàng cũng hiểu, hết ngờ vì yêu
Ngọt ngào lại đẹp như thêu
1540- Ngày xuân lại nở lối chiều vàng hơn
Kinh thành dày tiếng sáo đờn
Các quan mũ áo rập rờn bôn ba
Theo về các bậc nho gia
Mưu bàn việc nước cùng ra giúp đời
Trung Thư Văn Kỉ góp lời
Cùng Vương tìm hiểu khắp nơi dân tình
Quan Tư mã Sở luyện binh
Cùng Đô đốc Dũng sân đình núi Bân
Thị Xuân, nữ tướng Tượng binh
1550- Dạy voi lập trận cùng Trần Diệu lang
Văn Tuyết, Văn Lộc, Văn Lân
Cùng Vũ Văn Nhậm- tướng quân trấn đồn
Việc quân thêm những dập dồn
Đợi ngày ra Bắc chớp con sóng thời
Nghe tin, Hữu Chỉnh rụng rời
Cùng con tính chước thay dời thế quân
Hữu Du tâm trạng thất thần
Vua Lê Chiêu Thống tìm đường tẩu dong
Tiên phuông- Nhậm, Sở tiến công
1560- Thương thay Hữu Chỉnh mạng vong trận tiền
Tan tành mộng mị quan quyền
Thân tanh nghiệp chướng một miền nước mây
Nhớ xưa cũng ở đất này:
”Một thời trai trẻ sum vầy xiết bao
”Từng là ông Cống khăn đào
”Bước ra lắm kẻ cúi chào bẩm thưa
”Lòng người sóng giục gió đưa
”Mách bày Chỉnh ván cờ lừa thế nhân
”Ngỡ rằng với ánh mắt thần
1570- ”Xoay quân cờ nghiệp vinh thân toại nguyền
”Xúi Hoàng Ngũ Phúc tướng hiền
”Xua quân đánh Nguyễn vây kiềm Phú xuân
”Định Vương nguy khốn lòng cam
”Bắt Trương Quốc phó giao quan Bắc triều
”Sự đời lắm nỗi trớ trêu
”Phú xuân đỏ mắt khóc mưu Đàng ngoài
”Lại còn bày Phạm Ngô Cầu
”Trấn thành Thuận hoá một thời lánh Ma
”Oan hồn vất vưởng phương xa
1580- ”Hẹn giờ sum hợp oan gia tớ thầy”
”Mới hay cái nghiệp dắt dây
Ngàn năm dường vẫn nặng đầy trong thân”
* **
Vào thành hai tướng Nhậm, Lân
Chiến công thắm đỏ nỗi lòng quê xa
Lân còn một nỗi mẹ già
Nhậm còn một nỗi lời hoa hẹn thề
Từ ngày cách biệt phu thê
Chiến bào khói bụi vỗ về tình riêng
Ngọn lao đã phóng theo triền
1590- Khó mà níu lại mũi duyên nghiệp đời
Gồng mình dạo hết cuộc chơi
Xem chân con tạo di dời tới đâu
Tình cờ quá bước thanh lâu
Gặp người kỹ nữ dãi dầu sắc hương
Lân la một thoáng dặm trường
Tấm lòng nhi nữ càng vương vấn sầu
Nhậm nhìn chưa tỏ hết câu
Nghe trăng vang vọng nhịp cầu như soi
Rằng:”- em chút phận tôi đòi
1600- Xin ai hào hiệp nỗi đời rong rêu ”
Bên nàng như đĩa dầu khêu
Sáng bùng ngọn lửa mượt màu ái ân
Hai tay ôm tiếng thì thầm
Lời chàng siết chặt hương trầm mê ly:
”- Bên ta em phận nô tỳ
- bên em ta gã tình si dại khờ
- đời tình em trải chiếu thơ
- vui hoang ta lội kín bờ thiên thai”
Hư không buông tiếng thở dài
1610- Gió miền quan tái sõng soài dưới trăng
Đã rồi gánh nghiệp vào thân
Trăng hoa ong bướm dần lân bao giờ
* **
Thăng long thắng trận tin về
Bình Vương lên ngựa vượt bờ sông Gianh
Nghe đồn:” tướng Nhậm, phong phanh
lục tìm vơ vét của dân hiếp người
khắp thành ai oán kêu trời
người hiền kẻ sĩ nhạo lời mĩa mai”
Lòng vương sắp sẵn con bài:
1620- ”nhân đây ta dứt sợi dây tơ tình
để ngừa mối hoa đao binh
thế thời phải thế biết đành tính sao!”
Đến nơi quân tướng cúi chào
Lệnh vuơng :” -bắt trói Nhậm vào cột neo”
Mơ màng chưa tỉnh giấc sâu
Nhậm nghe đâu đó :”Than ôi!”- Tiếng nàng
Hồn oan theo gió lên ngàn
Trong mơ còn đẫm giọt vàng thanh lâu
Một thời đạp đất đội trời
1630- Một thời chiến tích rạng ngời châu thân
Một thời sủng ướt nghĩa nhân
Đem cân ngần ấy hoá ngần ấy thôi
Bao nhiêu ánh mắt bồi hồi
Bao nhiêu sắc mặt vẽ lời khen chê
Bao nhiêu cười nụ hả hê
Đem gom cả lại đắm mê con đò
* **
Lòng Vương bao nỗi tơ vò
Nhìn dân bao nỗi bơ phờ tình riêng
Cũng vì thời cuộc đảo điên
1640- Sĩ hiền đất Bắc một miền xác xơ
Nơi đây còn lạ màu cờ
Trong sâu lắng nặng nỗi ngờ người xa
Từng ngày biến động Hoàng gia
Từng ngày máu đỏ chan hoà áo cơm
Đất thiêng người cảnh thêm còm
Gò trăng thiếu phụ chon von khóc chồng
Bốn bề âm khí triều dâng
Niềm đau lại tiếp chất chồng đớn đau
Lòng Vương càng mở càng nhàu
1650- Tâm Vương chưa tịnh đã lau lách dày
Chiến bào khói nặng hai vai
Đâu người tri kỉ giải bày một phen
* **
Tiếng đồn Vương đải người hiền
Ông Nghè Thời Nhiệm được duyên mời về
Hữu phùng tương ngộ hả hê
Lệnh truyền viết hịch vỗ về lòng dân
Vời ông Huy Ích hiền nhân
Cùng bàn kế sách việc quân sau này
Lòng Vương rưng nắng như bày
1660- Như trăng mừng nước rắc dày bến sông
Bắc hà như lại mênh mông
Quan Tư Mã Sở coi trông cung đình
* **
Trăm năm cũng một chữ tình
Mấy ai thấy được cái mình với ta
Đã ai thức trọn canh gà
Mà nghe tiếng vọng la đà tàng sương
Trăng nghiêng dài bóng kiều thương
Lao xao vó ngựa bụi đường vàng bay
Lòng Vương canh cánh đôi tay
1670- Hai bờ Nam - Bắc đường say dặm người
Cuộc cờ hoa mở nước tươi
Chiến công! Chém phức nụ cười quân cơ
* **
Biển dâu xanh lá hững hờ
Càn khôn một gánh nặng đò trầm luân
Tàng thu vàng dọc vách rừng
Chùm tơ tưởng rối sợi chùng tóc hoa
Phú xuân dõi bước quê nhà
Dài bao nhiêu nỗi ngọc ngà chưa kham
Mới hay cái nghiệp nhà quan
1680- Ôm thân bèo bọt luỵ tràn kiếp hương
Một đời được mấy vấn vương
Một thân đẫm khúc đoạn trường vi thanh
***
Chương 7
Về dinh ngày đã sang canh
Cung loan sáng lối con oanh hót chào
Tuần trăng hăm mấy hanh hao
Gió miền quan tái theo vào ngõ thu
Trăng e ấp gió chần chừ
Mùi hương rạo rực chừng như ứa tràn
Yếm âu sau phút bàng hoàng
1690- Giọng oanh thỏ thẻ mạch đàn tỉ tê
Trùng phùng trướng động màn xê
Tường Nam sương khói dầm dề mặc nhiên
* **
Trong triều, Nội thị- Đắc Tuyên
Có đôi mắt cáo thâu đêm nhón người
Đôi môi trề trệ ít cười
Phập phồng mũi đỏ nhìn tươi quả đào
Người to béo, dáng không cao
Là anh Hoàng hậu đứng sau hậu trường
Mưu mô cùng nhóm thân vương
1700- Nhon nhen sàm tấu tiến đường vinh hoa
Sớm chiều cung cấm lân la
Phòng loan hoàng hậu châu sa ngập lòng
* **
Giường trăng gối bóng qua song
Gió ngoài xao xác hoa trong rũ rười
Tuồng đời chèo lộng hò vơi
Đoạn trường xuân sắc bời bời liễu xanh
Giận tình nhen dạ chong canh
Cõi riêng một nỗi trĩu nhành tóc tơ
Tàn đêm bấc lụn châu mờ
1710- Mấy lần quan tái lạnh bờ ái ân
Nhìn con, Quang Toản tủi thân
Trách chi mấy đứa cung tần ngẩn ngơ
Chánh cung! Hai tiếng ơ hờ
Nắng treo làn biếc gió mờ vệt son
Sôi reo nước chảy đá mòn
Tàng đông nghiệp lá chon von thân cành
Thầm thì hơi ấm tình anh:
”Giang sơn âu có tan tành cũng thôi
Tấm thân, còn nợ đất trời
1720- Gánh chi thêm nặng nghiệp đời tấc gang
Tưởng chừng cách mấy quan san
Mà trong chớp mắt nát tan ngọt ngào”
Tình gầy nhan sắc han hao
Phấn son mòn thắm hương đào mòn thơm
Lửa ghen ngày một xanh rờn
Lửa căm đêm hực chờn vờn cơn mê
Lời Tuyên thêm thắt tỉ tê
Nhen bùng ngọn lửa u mê sau này
* **
Chừng như trời chuyển heo may
1730- Cành đông bầy khỉ nhíu mày gáy tin
Núi Bân níu bóng Ngự bình
Cờ Đào phấp phới thầm thình trống quân
Bụi binh hồng rực ải quan
Dòng người, voi, ngựa- Ba tầng rung rinh
Sẵn sàng xong cuộc Bắc chinh
Tiếp theo là việc dân tình đang mong
Lên ngôi- Hoàng Đế Quang Trung
Phát ra bài hịch trùng trùng sóng reo
Nội dung:” vạch tội Lê Chiêu
1740- Qua Tàu cỏng rắn Thanh Triều hại dân:
- Người Tàu, họ vốn dã tâm
ngàn năm xưa biết bao lần xâm lăng!
thời Ngô, Lý nhớ Bạch Đằng
thời Trần- máu giặc Nguyên Mông còn nồng
thời Lê sau, lũ Vương Thông,
Liễu Thăng mượn cớ giúp Trần ùn sang…
Bây giờ thì bọn Thanh Càn
miệng hô giúp Thống, bụng thầm lấn sân!”
Một lời trước mặt ba quân
1750- Rằng :”mồng năm tết vào thành Thăng Long!
- Hởi ba quân hãy một lòng!
- Vì nền độc lập núi sông- Tẩy trần!”
Hai lăm , mười một Mậu Thân
Nhà vua làm lễ ra quân diễu hành
* **
Nhắc Ngô Tư mã Bắc thành
Được tin Chiêu Thống dắt quân Thanh về
Tình hình hỗn loạn tứ bề
Quan binh lo lắng, xóm quê phập phồng
Bóng thù sôi sục tầm trông
1760- Tiếng thù vang vọng núi sông chờn vờn
Nhìn theo thế giặc đậm dần
Sở mời Thời Nhiệm cùng Lân họp bàn
Rằng:” Quân Sĩ Nghị tràn sang,
Thế như thác đổ khó đương lúc này
Chi bằng tạm mở vòng đai
Lui về Tam Điệp lập bài ẩn binh
Thế nào giặc cũng ngang nghinh
Coi thường đối thủ, ta rình úp sau”
* **
Quân Thanh người ngựa chát màu
1770- Dài ba mươi vạn ngập ngời giáo gươm
Lăm le sát khí nườm nườm
Bụi tràn trắng lối khói tuôn mịt bờ
Ầm vang nhịp trống, hiệu cờ
Chia làm bốn cánh càn vô Long thành
”Luỹ đồn trống rỗng vắng tanh
Quân Tây sơn chẳng động manh một bề”
Khề khà Sĩ Nghị hả hê
Bồn chồn Chiêu Thống rề rề nỗi lo
Một bên phè phỡn say no
1780- Một bên ngồi đứng co ro chực chờ
* **
Quân Nam thuỷ bộ trương cờ
Lòng sôi hừng hực cõi bờ loé xa
Thuỷ binh- Đô đốc Tuyết và
Phó Đô Văn Lộc vòng qua Vị Hoàng
" Quân lương kiểm nhận sẵn sàng
Theo từng quân số đã ban theo vùng
Quân trang, quân dụng tập trung
Kiểm tra binh khí sở trường theo khâu
Xong cho chuyển đến tuyến đầu
1790- Giao cho tướng soái tận nơi lập đồn
Nỗi lòng quân tướng keo sơn
Nỗi lòng chiến trận rập rờn ánh sao”
Bộ binh dòng sóng sôi trào
"Ngày đêm hồ hởi cờ đào tiến ra
Tính hơn mười vạn trẻ già
Giáo gươm lương thực một ba liên hành
Đường lùi sau bước chân nhanh
Bánh đa, bánh tét sẵn dành thức ăn
Tâm can rộn nhịp cánh bằng
1800- Từ Tam điệp tới Chi lăng phục chờ!”
Quân cơ bày sẵn trận đồ:
”Đúng ba mươi tết động cờ khởi binh
mùng năm tết vào Thăng long
mùng bảy tết – lễ khao quân một ngày”
Lời Vua rõ cả như bày:
”quân ta năm đạo việc ai nấy làm,
theo ta, Văn Sở, Văn Lân
tiên phuông cửa chính Nam thành Thăng long
dẹt đường đại bác iểm công
1810- Ngọc hồi thất thủ phá xong tuyến này!”
Quân tình lấp lánh sao lay
Pháo giao thừa nổ rưng ngày chiến công
* **
Quang Trung đứng trước bệ rồng
Bốn bên tướng sĩ rộn lòng tin vui
Cùng đường Nghi Đống ngậm ngùi
Vòng dây oan nghiệp ngoẹo người hám tanh
Vắt giò lên cổ chuồn nhanh
Mảo quan ấn kiếm Nghị đành ném, dong
Sông thây nghẽn đỏ kín dòng
1820- Ba mươi vạn xác đếm còn nửa muôn
Đúng như kế sách Người mong
Ngày mồng bảy tết khao quân trong ngoài
Áo bào khói nặng đen vai
Tượng binh, mã chiến vòng ngoài hí reo
Đường xuân người rạng bước đào
Cỏ cây xanh sửng hồ ao lặng lờ
Dân ngoài như đứng trong mơ
Người trong như đứng dựa bờ sóng say
***
Vài trăm năm lại một ngày
1830- Bao nhiêu năm lại đất này bão giông
Cũng là cái nghiệp , cái thân
Đoạn trường khúc hát vi thanh lại chờ
Đang nhìn thực tưởng như mơ
Nghe âm nhạc tưởng lời thơ chập chùng
Dòng người được mấy anh hùng
Dòng sông được mấy cánh rừng soi theo
Đâu ai vững mãi tay chèo
Đâu ai dính mãi sơn keo đời mình
* **
Vòm trời sẻ lặng màu binh
1840- Nhà vua dò bước dân tình chiêu an
Triệu mời văn võ bá quan
Họp bàn củng cố Bắc Nam hoàng triều
Khuyến nông pháp lệnh đê điều
Đăng quang lời hịch bao nhiêu rạch ròi
Từng điều khoản rọi khắp nơi
Quân binh một số về đời nông dân
Sứ thần sang nghị hoà” Thanh”
Xin triều cống để cầu lành dựng xây
Trăm công nghìn việc chất đầy
1850- Lòng vua lắm lúc vơi đầy kỉ cương
Quan trường thời chiến một phương
Thời bình sôi sục chính trường lợi danh
Gờm nhau hai chữ công thần
Chia bè lập phái giật giành quyền uy
Hậu cung hai vách xầm xì
Nội cung hai cánh rầm rì ngay gian
Nhà vua vén lại tấm màn
Nhìn thời đao kiếm bàng hoàng tuổi xanh
”Một thời lướt dưới bóng anh
1860- ”Cây đao thơm nức hương quỳnh thiêng liêng
”Trận nào rúng động bao miền
”Một đêm ba vạn qui tiên quân triều
”Cha con Phúc Hiệp hồn xiêu
”Cha tự vẩn, con bương liều tẩu dong…”
”Trận nào náo động Sài côn
”Thị nghè nghẽn máu Vân đồn nghẹt thây
”Hai tàu chiến lớn bọn Tây
”Cháy vùi sâu dưới bóng mây một bề
”Hai ngài vương Nguyễn hôn mê
1870- ”Quân Tây sơn bắt đưa về trảm ngay”
”Mệnh đời Nguyễn Ánh còn dày
”Vượt vòng số phận cao bay cuối trời
”Từng ngày làm kiếp bèo trôi
”Lênh đênh Xiêm quốc cầu người giúp quân
”Xiêm la nhận lễ cầu thân
”Thuỷ binh, ba vạn rần rần lướt sang
”Thăm dò đầu khúc Tiền giang
”Dàn binh lập trận họp bàn tiến công
”Leo đeo một số tàn quân
1880- ”Mượn câu ‘giúp chúa’ gọi dân hùa lòng
”Giáp Thìn mù mịt cuối đông
”Rạch Gầm chồng chất bềnh bồng thây Xiêm
‘Chiêu Sương’ lết níu ‘Chiêu Tăng’
”Cùng ông ‘Chủng’ném áo quần bơi suông
”Về Xiêm còn mấy thân truồng
”Vua nhìn binh tướng như tuồng hát rong ”
* **
Quang Trung lòng bỗng xa xăm:
”Nhớ hai mươi tuổi cùng anh mưu đồ
Dựng bài Nguyễn Nhạc sa cơ
1890- Trói thân trong cũi khiêng vô Qui thành
Giao quan Tuần phủ lãnh phần
Bất ngờ đánh bật hai đường ngoài trong
Thất thần quân tướng tẩu dong
Mở màn cơ nghiệp Tây sơn thịnh cường
* **
Lòng Người lại những tơ vương
”Nỗi lòng thầy Hiến chặng đường sử kinh
Năm năm trằn nặng thâm tình
Thêm năm năm nữa nhọc vinh đời Thầy
Cũng vì hai chữ trung ngay
1900- Cũng vì cái nghĩa ơn dày chúa Trong
Cũng vì cả một nỗi mong
Muốn cho xuôi thuận cánh buồm an dân
Mới ra cái nghiệp tâm thần
Phút ra đi vẫn lầm thầm tiếng trung”
* **
Lòng Người lại thoáng ngập ngừng
”Nhớ xưa cùng Nhậm trong rừng luyện binh
Hai bên ngang ngửa trí hùng
Binh thư sách lược kiếm cung vẹn toàn
Chỉ vì một chút hoang mang
1910- Chỉ vì một nỗi rối trong bời ngoài
Anh hùng vướng nghiệp trần ai
Nữ nhi rót lệ dặm dài tình thâm
Nên đành đập hạt tơ hồng
Quẳng xa gánh hoạ luân trầm ngày sau”
* **
Quay nhìn cô cháu lòng đau
”Thọ Hương vén lệ ôm sầu oán cha
Hai bình cắm một nhành hoa
Hoa chưa phai sắc bình đà vở toang
Xác xao một nhúm hương tàn
1920- Mong manh một mảnh hồng nhan nghiệp tình
Ngán ngao thay giấc phù sinh
Xót xa thay phận lục bình đời sông
Ai se chi sợi tơ hồng
Để cho ai xé chữ đồng làm đôi”
* **
Nhìn vào máu thịt liền nhau
”Nghe tin Vương Lữ tìm màu tâm linh
Sáng chiều ngồi lặng sân đình
Buông xuôi vào cõi u minh mơ hồ
Quanh Vương tất cả ơ thờ
1930- Bốn bề vạn vật một tờ rỗng không
Việc triều giao hết vua anh
Lịm dần trong cõi tâm thành ra đi”
* **
Lòng Vua từng nỗi vân vi
Lăn tăn bao tiếng xầm xì hậu cung
Hai phương chí cả lại hừng
Giục Người xếp lại sau lưng tơ tình
Quyết lòng một Đấng anh minh
An dân lạc quốc lập trình kinh bang
Cận kề ái hậu Ngọc Hân
1940- Cùng Trung thư Kỉ tính phần hai phương:
”Mặt ngoài lưỡng Quảng: Tây, Đông
xưa là thuộc đất Lạc Hồng vua Nam
nay ta viết chiếu gửi sang
nhắc vua Thanh xét giao bang giới bờ
thuận buồm xuôi gió thì nhờ
bằng không tính chuyện quân cơ sau này…;
phương Nam chờ chuyển heo may
thuỷ binh luyện tập đêm ngày đừng lơ!
bao giờ xong việc cõi bờ
1950- chí ta mới được thoả mơ lòng này!”
Ngọc Hân nhìn Huệ tình say
Tấm lòng nhi nữ ngất ngây anh hùng
Khi ngự triều lúc hậu cung
Hai hình bóng ấy sánh từng bước chân
Cạnh ông Văn Kỉ hiền thần
Có ông Văn Dũng , vợ chồng Diệu Xuân…
Tâm đồng quyết một chữ trung
Phò vua giúp nước ngóng mừng thái an
***
Chương 8
Nhắc qua Nguyễn Ánh phương Nam
1960- Từ sau khủng khiếp Rạch Gầm thây Xiêm
Nổi trôi cùng đám quân tàn
Chiêu binh mãi mã gian nan trăm bề
Nghiệp đời rối rắm bước quê
Thương em, xót mẹ lòng tê tái lòng
Cơ trời nghiêng xuống nỗi mong
Dân tình khơi dậy ân Hoàng chúa xưa
May sao thời vụ được mùa
Đóng thuyền mua súng săm sua đợi ngày
Trời xui gió dữ hướng Tây
1970- ”Anh em Nhạc- Huệ xáo cày tình thâm”
Nghe tin vương Nguyễn mừng thầm
Vội mời các tướng họp bàn việc quân
Ánh rằng:” Ta suốt bao năm
Bôn ba sông nước ăn nằm gió sương
Nay trời cho lại nghiệp Vương
Khiến anh em Nhạc ngược đường binh đao
Lòng dân cũng lắm nôn nao
Liệu xem kế sách kế nào là hay?”
Một trong mười tướng ứng ngay,
1980- ”Hạ thần- Võ Tánh xin bày kế quân:
- Lữ vương tâm trạng bất thần!
Dùng ly gián kế ắt thành công thôi!”
Nói xong lấy bút ghi lời
Đọc qua vương Ánh gật đầu cười to!
Đúng y như Tánh liệu dò
Lữ vương trúng kế nghi ngờ Văn Tham
Túng đường Tham mở thành nam
Trá hàng cứu lính, ngửa than lên rằng:
”- nếu trời sinh Huệ là anh
1990- thì Tham đâu có thác oan thế này!”
Cơ trời càng chuyển thế xoay
Vân Đồn Gia Định từng ngày tiến ra
Cửa thành Bình Thuận nhạt nhoà
Quân binh Nguyễn Lữ bụi loà chân mây
Đang vui vương Nguyễn chau mày
Quay nhìn Võ Tánh- nhớ ngày năm xưa:
”anh hắn - ta giết vì ngờ,
mà lòng giúp chúa hắn lờ tình riêng!”
”ta còn cô út chờ duyên
2000- nhân đây tác hợp thuyền quyên anh hùng”
Truyền người sang sửa gia cung
Định ngày hôn lễ chào mừng chiến công
Ngọc Du -Quận chúa tiên dung
Mười năm lưu lạc mà trong như ngần
Tuổi nàng đang chín sắc xuân
Tình nàng vừa chớm cánh hồng chiêm bao
So vai cùng khách anh hào
Tấm lòng nhi nữ dạt dào phấn hương
Đôi môi ướt mọng ánh hường
2010- Đôi chân gót đỏ dặm trường bước xanh
Đôi tay nà nuột như măng
Sáng trong đôi mắt long lanh giọt ngời
***
Sau đêm hợp cẩn bồi hồi
Chàng trai Võ Tánh ngồi soi đời mình
”Nhìn ra quê mẹ non xanh
Cửa đầm Thị nại sóng gầm gió xô
Theo cha từ thủa bé thơ
Khai hoang lập ấp dựng cờ phương Nam
Lớn lên trong sắc nhà quan
2020- Sân Trình cửa Khổng mười năm dùi mài
Đồng thân lắm kẻ hiền tài
Tùng Châu, Quang Định, Duyệt, Hoài Đức..đương
Cùng về một dạ phò Vương
Cùng đem trí dũng sở trường kinh luân
Tùng Châu là bậc trí nhân
Gốc người ở phủ Qui Nhơn- nho nòi
Tài Lê Văn Duyệt đem soi
Sánh như Từ Thứ một thời nước Ngô
Quang Định, Hoài Đức đâu vừa
2030- Hai tay văn võ nào thua Tiêu*, Phàn*
Lại thêm các vị cựu thần
Nguyễn Nghi, Huỳnh Đức, Văn Thành, Văn Trương…
Thầm vui Võ Tánh nhìn quanh
Sóng nồm gió vỗ ì ầm bên tai
Lao xao biển rộng bờ dài
Quân cờ khua động con bài nhấp nhô
Lòng người còn lắm mơ hồ
Lòng trời còn lắm mịt mờ khói mây
***
Qui nhơn vua Nhạc hao gầy
2040- Tình nhà việc nước xéo dày tâm can
Từ khi Lữ bỏ phương Nam
Nỗi đau luỵ rượu nỗi căm luỵ đàn
Cung tần mỹ nữ giăng hàng
Việc binh phó mặc quan gian tung hoành
Lòng trời xoay chuyển vòng quanh
Mây đen che khuất bóng thành Qui nhơn
Phú yên quân Nguyễn chờn vờn
Cửa Đông hải khấu rập rờn vào ra
*Tiêu Hà,*Phàn Khoái Hai danh tướng thời Tiền Hán ( Lưu Bang)
Dân tình đói khổ kêu la
2050- Người hiền tản lạc tài ba tẩu đào
Cung đình ngày một xanh xao
Núi sông ngày một hanh hao úa vàng
”Một thời cờ trống hiên ngang
Một thời Thiên đế xuống trần phong Vua
Tan trong chớp mắt như đùa
Rừng Tây sơn thượng cây xưa khô dần
Xót xa cái nghiệp trong thân
Nhựa khô màu héo quả nhân luân hồi
Trách chi đời bạc như vôi
2060- Thầm thương ngắn ngủi cuộc người vinh hoa”
* **
Phú xuân mắt Huệ chan hoà
Nhìn theo sông núi nhìn qua đời mình
Trước ngày Nam tiến động binh
Lòng Vua trằn trọc nội tình hoàng cung
Truyền vời Thời Nhiệm về cùng
Rà xem kế sách chấn hưng trong ngoài
"- việc thay Quốc tự giao ai?
ông xem đảm trách việc này được không?
dạy cho dân học chữ nôm
2070- lập Sùng Chính Viện cảo thơm giữ gìn
đối lưu Hán tự nôm văn
tập cho sĩ tử quen dần chữ nam
- hai là dẹp loạn Đàng trong
định ngày, cử tướng, đang cần bao binh?
- ba là việc Sứ sang Thanh
ông Vũ Văn Dũng chương trình tới đâu ?
bao nhiêu công việc nhập nhầu
cùng ta bàn kỉ để mau tiến hành!”
Đăm chiêu một lúc, Nhiệm rằng:
2080- "- việc thay quốc tự mời thầy La Sơn
thánh hiền làu thuộc nghĩa nhân
thiên văn địa lý thông cầm trong tay
nhìn xa thấy rộng ai tày
kính xin bệ hạ thỉnh ngay thầy về!”
Một ngày bàn bạc hả hê
Về cung lòng Huệ tràn trề nỗi mong
Ngọc Hân tâm trạng phập phồng
Mừng mừng sợ sợ trí lung từng giờ
Mừng là thống nhất sơn hà
2090- Sợ là nhi nữ phòng hoa một mình
Nhưng vì nghiệp cả cũng đành
Xui chồng sớm quyết chớp nhanh thế cờ
Cùng thầy Nguyễn Thiếp đắn đo
"Mở trang sách thánh một tờ trắng không”
Suốt đêm ngồi lặng thư phòng
Ngọc Hân- Nguyễn Huệ gộp lòng ngẫm soi
Lòng thành nàng cố khẩn cầu
La Sơn Phu Tử có lời trong thơ:
"Già kham sao nổi hai vua!
2100- Cuộc cờ phú quí ngựa đùa pháo bay
Trời nam Sơn giống mau gầy!
Phục Ba cột Bắc một cây vẫn còn!
Một sừng thú lạ Tây dương
Mà người chột mắt như dường chưa ra
Bao giờ Nhật Nguyệt quang hoa
Âu ca rạng rỡ giống nhà một khi”
Lạy chào, Nguyễn Thiếp xin đi
Bôn ba về núi vân vi bốn mùa
Bỗng đùng thị nữ vào thưa:
2110- ”Hoàng thượng ngã bệnh hôn mê lâm sàng”
Ngọc Hân chưa hết bàng hoàng
Ba chân bốn cẳng bương ngang sảnh ngoài
Nhìn chồng nhắm mắt xuôi tay
Một dòng máu đỏ cưá dài qua môi
Thái y kẻ đứng người ngồi
Tứ chi nàng cứ rụng rời từng khoang
Quì bên nuốt lệ hai hàng
Nỗi đau nàng thấu tâm can đất trời
Bỗng đâu động đậy mắt Người
2120- Long lanh ánh ướt ngậm ngùi tràn ra
Đôi môi khẻ mở như là
Nói lời chi đó nhưng mà lặng thinh
Dường như máy động lời tình
Từ trong sâu thẳm tâm linh vọng về
Từ trong dày đặc hoang mê
Đơn cô nay lại trả về cô đơn
Cả triều quan tướng dập dồn
Chánh cung Hoàng hậu bồn chồn vào ra
Đắc Tuyên méo mó khóc oà
2130- Trung Thư Văn Kỉ mắt nhoà giọt châu
Thị Xuân, Quang Diệu ôm đầu
Văn Lân, Văn Tuyết đứng ngồi không yên
Văn Long, Đình Tú cố ghiềm
Hai môi tứa máu lặng im cúi đầu
Bỗng nghe tiếng gọi:” Quân đâu!
Trói tên Tuyên lại! chặt đầu cho ta!”
Bao nhiêu đôi mắt chói loà
Giật mình không biết chánh tà ra sao ?
Môi Người mấp máy thì thào
2140- Khép dần ánh mắt đi vào thiên thu
Không gian sầm xuống tối mù
Ngọc Hân hồn phách âm u cõi người
Bắc Hà Văn Sở rụng rời
Cùng Ngô Thì Nhiệm như dời chân bay
Đến kinh đã quá ba ngày
Nhìn màu tang chế trải dày hoàng cung
”Nghe như sóng dậy muôn trùng
Nghe đâu tiếng vọng chín từng mây cao
Nghe đâu trong nỗi nghẹn ngào
2150- Trăm con dao lửa róc cào máu tươi”
Sau ngày tang lễ rũ rười
Chánh cung Hoàng hậu mặt tươi hoá vàng
Nói cười nhảy múa miên man
Tóc tai bù rối dung nhan phạc phờ
Một đêm bà thét trong mơ:
”giết quân bội bạc! ờ ờ! rồi sao?
ha ha! Hắn chết hồi nào?”
Thân bà nằm ngoẻo máu trào khoé môi
Cung tần hoảng hốt kêu trời
2160- Thái y, quan tướng đến nơi tận tường
Mỗi người một nỗi riêng vương
Mỗi trong ánh mắt vô thường gởi theo
Dường như nước mắt đã nghèo
Tiếng than khóc cứ vắng teo bên bà
Gia hầu túm tụm thở ra
Người ruột thịt đứng xuýt xoa vò đầu
Đông cung Quang Toản lầu bầu:
"Mẫu hậu ơi! Mẹ lên trời nữa sao?”
Không gian như chực sôi trào
2170- Khí âm ngùn ngụt ùa vào nội cung
* **
"Nhìn theo cái điểm vô cùng
Chân mây mặt nước ung dung liền màu
Một vùng ánh sáng soi theo
Một vùng bóng tối nhò nhàu giới biên
Vòng theo qui luật khôn kiền
Tạo ra sinh diệt tỉnh điên dòng đời
Đêm qua một ánh sao rơi
Sáng nay vắng mất một người bên ta
Nhìn theo tiếng trẻ oa oa
2180- Thấy trời xưa ánh sao ngà lung linh
Dọc qua một gánh hành trình
Xuyên vào kí ức tâm linh nét ngời
Đò người neo bến chơi vơi
Đường biên nhật nguyệt phán lời cách chia
Miên man một cõi đi về
Giật mình thấy đứng bên lề áo quan ”
Triều đình lần nữa lễ tang
Quần thần lần nữa hoang mang nỗi ngờ
Soi nhìn Thái Tử còn thơ
2190- Đắc Tuyên quyết nắm quân cờ trong tay
Liền vời Xuân, Sở tỏ bày
Chuyện xưa khơi nhớ, chuyện nay đem bàn
Và ngày Vua Nhỏ đăng quang
Đắc Tuyên- Cậu ruột Vua, làm Thái sư
* **
Hoàng triều Cảnh Thịnh âm u
Nỗi lòng binh tướng mây mù bủa giăng
Thái sư Tuyên mở cánh bằng
Săm sua mũ áo lăng xăng uy quyền
Chọn người tâm phúc hữu duyên
2200- Mưu mô lung lạc tôi hiền trong cung
Mũi tên nhắm thẳng Ngọc Hân
Nhắm vào Văn Kỉ- Trung quân, đợi giờ
Bày vua dịch chuyển quân cờ
Đưa Lân, Tuyết, Tú.. đến bờ ải xa
Đưa Dũng ra trấn Bắc Hà
Thay Ngô Văn Sơ- triều ca gọi về
Một vòng vây cánh xum xuê
Một phen mặt mũi hả hê quan trường
Phú Xuân trắng lạnh mù sương
2210- Long môn hiu hắt Triều đường xanh xao
Phương Nam quân Nguyễn sôi trào
Qui Nhơn Nguyễn Nhạc chao dao binh quyền
Mười năm tích tắc cơ duyên
Xong chưa một cuộc bơi thuyền sông mê?
* **
Ngọc Hân, mày mặt ủ ê
Lối ra mờ mịt ngỏ về lạnh tanh
Phòng trăng lửng thửng buông mành
Võ vàng chăn gối hao hanh xuân thì
Giọt cay rát nặng bờ mi
2220- Nỗi trăn trở cứ ôm ghì giấc sâu
”Hồn đang chìm giữa sông sầu
Mà mơ sánh bước lên chầu cùng ai
Vội vàng ghì chặt đôi vai
Than ôi! Mờ mịt hình hài khói sương
Hồn mơ thưởng ngoạn ngự vườn
Chân chưa chạm đất trầm hương lạnh tàn
Hồn mơ tận mặt dung nhan
Bỗng âm u cảnh kinh hoàng máu me
Kiếp này duyên đứt dây se
2230- Ước xin kiếp khác gốc hoè sớm trưa
Ước như Thang Võ vua xưa
Đức sâu tuổi hạc có thừa trăm năm
Cờ đào áo vải thành tâm
Giúp dân dựng nước cát lầm xiết bao!
Ước vua Nghiêu Thuấn đức giàu
Mà Người lượng cả ơn sâu kín dày
Sao đành tuổi hạc sớm bay?
Hoá công ôi! Biết sự này vì đâu?
Nếu cho chuộc được số người
2240- Thì thân này nguyện ngậm cười cùng ai
Để chi mòn mỏi canh dài
Ôm con thơ cõi trần ai khuê phòng
Còn gì đâu để mà mong
Muốn theo để vẹn chữ tòng cho xuôi
Nhìn con, núm ruột ngậm ngùi
Nên đành nấn ná thân người ngu ngơ
Hồn như đang đứng bên bờ
Cùng Người ngự cảnh sông hồ Bồng Lai
Qua Sông Ngân dạo Thiên Thai
2250- Vào cung điện quế, ngắm đài nguy nga
Bỗng đâu xao xác tiếng gà
Bàng hoàng chăn gối nhạt nhòa chiêm bao
”Mơ màng thêm nỗi khát khao
”Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?”
Lòng nghe bao nỗi bồi hồi
Nguyện đồng sinh trọn sao người vội thay
”Xưa sao sớm hỏi khuya bày
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ!”
Giờ sao lặng lẻ thờ ơ
2260- Tình khô ái héo bơ phờ ai hay?
”Xưa sao gang tấc gần chầu
Trước sân phong nguyệt trên lầu sinh ca!”
Giờ sao hai cõi cách xa
Câu hàn huyên biết hỏi qua nơi nào?
Nửa cung gãy phím đàn trao
Con thơ côi cút má đào bơ vơ!
Quẩn lòng lắm lúc ngẩn ngơ
Nghe con chim Cuốc vọng bờ đau thương
”Não người thay cảnh tiên hương
2270- Dạ thương quanh quất, mắt thường ngóng trông!”
Nhìn buồm xuôi ngược mái Đông
Nước mây vời vợi mênh mông muôn trùng
Nhìn Tây trời đã ráng hồng
Non cao chất ngất có còn rừng sơn?
Nhìn Nam thăm thẳm ruộng đồng
Nhìn về phương Bắc bềnh bồng trắng sương
”Nọ trông trời đất bốn phương
Cõi tiên thăm thẳm biết đường nào đi ?”
Phép gì tới đó một khi
2280- Dâng lên thường vật ngỏ bày lòng trung
”Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung bao ngày!”
Duyên lành đã lẽ xót rày
Vì ai vội rẽ ai hoài ngàn thâu?
”Xin đưa gương ấy về chầu
Ngỏ soi cho tỏ gót đầu trông ơn!”
Tưởng linh sàng đọng dấu nhơn
Nỗi sinh cơ có thấu chăng cho cùng
”Tân quân còn tuổi ấu xung
2290- Tiên vương sao nỡ quên lòng đoái thương?”
Gót con lẫm chẫm mấy hàng
Chông chênh mũ áo bào hoàng trên ngai
”U ơ ra trước gương đài
Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào!”
Lục viện rũ liễu, úa đào
Xiêm nghê buông thả xác xao ve gầy
Quê hương mòn mỏi tháng ngày
Tủi duyên chốn ở, đắng cay lối về!
Hàng uyên bệ ngọc tái tê
2300- Cất chân tay khó thương hề xiết chi!
”Hang sâu vẳng tiếng thương bi
Kẻ sơ còn thế huống gì người thân!”
Biệt ly bát ngát khúc trần
Mạch sầu ai tát bao lần cho vơi?
”Càng trông càng một xa vời
Tất lòng thảm thiết chín trời biết chăng?”
Tủi lòng mòn mỏi bóng trăng
Gương nga đã bụi ánh Hằng màu trong
”Nhìn gương càng thẹn tấm lòng
2310- Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà”
Hoa buồn thêm thẹn đời hoa
Hải đường xuân sắc la đà cành sương
”Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, Phượng Hoàng lẻ đôi!”
Cảnh nương theo cảnh bùi ngùi
Tiệc vui tìm gặp nụ cười nơi đâu ?
”Phút dây bãi bể nương dâu
Cuộc đời là thế nài hầu được sao?”
Nghĩa tình đất rộng trời cao
2320- Nỗi lòng người sống xiết bao đoạn trường”
* **
Mặt trời vấn Mặt trăng vương
Hai bờ hư thực vô thường xác thân
Áo hoa nhàu nhục bụi trần
Hồng nhan bạc phận- Ngọc Hân là nàng
Thái sư xúi lũ hầu gian
Phao tin lan khắp rằng nàng giết Vua
Cung đình sấm chớp gió ùa
Bắc cung Thái Hậu bị đưa vấn lời
Buộc nàng nhận:” bởi thù sâu
2330- Nên dùng thuốc hiếm lén đầu độc Vua!”
Rồi đem nhân chứng khai bừa
Đớn đau nàng lấy bút hoa tường trình
Nội dung bày giữa anh minh:
”Lời Ai Tư Vãn đẫm tình bao chương
Diễn ca suốt khúc đoạn trường
Một trăm sáu tám dòng hương não nùng”
Triều thần ai nấy lòng rưng
Thái sư Tuyên cũng ngập ngừng đành lui
Lời bi tiếng não ngậm ngùi
2340- Diệu- Xuân, Văn Kỉ ngẩn người nhìn nhau
”Ôi thôi! Sự đã lỡ rồi!
Tiên Vương ôi! Một phận đời đớn đau!
Tiền đồ rã rượi gam màu
Lấy ai rường cột chống neo cơ trời
Phương Nam giặc Nguyễn khắp nơi
Vua Anh Nguyễn Nhạc rệu rời nội cung
Phú Xuân còn mấy anh hùng?
Gian quan lộ mặt vịn lưng cửa quyền
Non sông phen nữa đảo điên
2350- Thôi đành cũng gắng cơ duyên Thiên Hoàng!”
Than xong, vuốt lệ hai hàng
Bải triều quan tướng bàng hoàng ngẩn ngơ
Nhìn theo mây khói hửng hờ
Dặm trường quan tái bơ phờ dấu xưa
***
Chương 9
Hung tin đưa tới bất ngờ
Phú Xuân, Vua đã băng hà như mơ
Hoài Sơn một phút sững sờ
Qui Nhơn một phút ngẩn ngơ quanh nàng
"Nhìn ra khuất mấy quan san
2360- Trông lên bàng bạc màu tang trắng trời
Một điều chưa nghĩ đã rơi!
Hai điều đang nghĩ như rời rạc ra?
Ba điều đã nghĩ nhạt nhòa
Thiên Địa Nhân ấy hoá là thế ư?
Đớn đau ai đáp tiếng ừ ?
Nhớ thương ai rọi vẻ tư lự buồn?
Một vòng hoa kết cánh sương
Một làn hương khiết dòng Kôn lũ tràn
Ì ào con sóng lầm than
2370- Triền miên vồ đập trăng ngàn biển sâu
Nơi đây còn lại một màu
Long lanh kí ức buổi đầu trinh nguyên
Gởi theo cánh gió xuôi triền
Phú Xuân ơi! chốn Cửu Tuyền có hay?”
Lê Lương nhíu trán cau mày:
"Hoá ra cũng đã có ngày này sao?
tưởng đâu thắm mãi cờ đào
để hồn Sơn nữ ta vào mộng du!”
Mười lăm năm đã có dư
2380- Mỗi người một nỗi ưu tư riêng mình
"Lê Lương thầm lặng đinh ninh
Hoài Sơn thổn thức tâm tình nhìn con
Cùng nhau nghĩa vợ tình chồng
Cùng nhau chôn kín lỗi lầm thẳm sâu
Bỗng dưng trời đỗ mưa ngâu
Cành lan huệ lại u sầu dáng xưa
Lê Lương thấy đất như vừa
Nứt ra một lối vặn vừa người đi!”
Lương nghe đâu đó thầm thì
2390- Tiếng ai mà lại vân vi từng lời
"Này này anh Lê Lương ơi!
Vừa con vừa rễ chuyện đời khó tin!
Bỗng dưng nhận được hậu tình
Nhập gia Hoàng tộc linh đình cưới xin
Vừa tròn tám tháng đã sinh
Nay mười lăm tuổi giống anh tí nào?”
"Lòng Lương lắm lúc tự hào
Nhìn thằng An lớn càng cao nỗi thầm
Mặt vuông, mắt sáng, tóc xoăn
2400- Tay dài, vai rộng, da ngâm, dáng hùng
Còn con Thái nhỏ sáng trưng
Mới mười ba tuổi như chừng tròn trăng
Nghề anh vẫn cứ nhập nhằng
Đền đài, thuỷ mạc lăng xăng sớm chiều
Cũng lần nâng chén tao tiêu
Nhìn trang thế sự nói điều bâng quơ”
"Còn nàng từ thuở đến giờ
Chăm hoa bón quả thêu thùa dạy con
Ngày rằm mùng một lên non
2410- Thắp hương lòng nguyện cầu tròn chí ai
Từng đêm mười mấy năm dài
Chữ tình chữ nghĩa chia hai tâm thành”
Bỗng đùng một bức tin nhanh
"Hoài Sơn nghe vỡ tan tành không gian
Sờ môi thấy mặn hai hàng
Nhìn thân thấy đứng trên giàn hoả thiêu
Chồng con một góc liêu xiêu
Cửa nhà một cảnh đìu hiu tận cùng
Bốn bề mây nước mông lung
2420- Dọc bờ lau lách chập chùng bước đêm
Nàng mơ thấy đứng bên thềm
Vòng tay ai đã run mềm bờ vai”
* **
Nghe em Huệ- đã an bài
Xót xa vua Nhạc ai hoài nguồn cơn
Lòng như tan hết giận hờn
Trí như được mách:”Gia ơn cho đời
Thân rày cạn sức mòn hơi
Hai mươi năm! đã rệu rời tâm can!
Nhám rô bụi phấn ngai vàng
2430- Con trai Nguyễn Bảo không màng bon chen
Lòng quan tướng lại ươn hèn
Phú Yên, Qui Phủ giặc men sát nhà
Vua truyền viết chiếu chuyển ra
Nhường ngôi cho cháu thay cha nghiệp trời!”
Rồi vời quan tướng vào chầu
"Lê Trung, Lê Chất,… âu sầu nhìn vua?
Thành Hoàng Đế bỗng như vừa
Trải qua một cuộc mây mưa rã rời
Cung đình mệt mỏi im hơi
2440- Lơ mơ ánh mắt buông lơi bơ phờ!”
Bàng hoàng Vua thấy trong mơ:
" Rõ ràng là Huệ mới vừa đâu đây?
Dắt theo ái nữ của Thầy
Trên tay ôm một quả cây Sơn rừng
Nhìn chăm ánh mắt rưng rưng
Ngỏ lời oán trách chưa từng nói ra
bương theo Vua muốn khóc oà
đôi chân vấp ngã giấc ngà tan theo”
Mơ màng hư thực chiêm bao
2450- Bên tai có tiếng thì thào báo tin:
"Rằng nhà quan Kiến trúc Lương
Bà Hoài Sơn đã lên đường theo cha!
Người bà ngào ngạt cánh hoa
Con bà nói :’’ Mẹ đi xa. Đợi về!’’
Bàng hoàng Vua Nhạc nói mê
Rồi truyền binh lính, kiệu xe ra ngoài
* **
Lễ tang sau đó ba ngày
Xác nàng được tẩm hoa đài mật hương
Đúng theo nghi lễ triều đường
2460- "Nội tình lệnh khẩn, thân vương miễn bàn!”
Mộ phần ẩn tại gia trang
Giao quan Hoài với con nàng trông nom
Lòng Vua như thảnh thơi hơn
" Về cung ngửa mặt cười giòn dưới trăng
Quẳng cha cái nghiệp nhọc nhằn…”
Phú Xuân tin Nhạc vừa băng hôm rồi
Thành Hoàng Đế lại mưa rơi
Nguồn Tây Sơn Thượng tiễn lời thứ ba
Người Qui Nhơn bóng nhập nhoà
2470- Trời Qui Nhơn những cánh hoa rụng dần
Cung đình tang lễ cuối xuân
Văn quan võ tướng lạnh lùng ngó nhau
Thọ Hương công chúa nguyện cầu
Áo nâu sồng lại trắng màu áo quan
Cổng chùa Thập Tháp giăng vàng
Rước cha bài vị linh sàng nơi đây
Thọ Hương nhớ lại những ngày
" Nhớ năm mười bốn thơ ngây tuổi hồng
Nhớ chiều hôn lễ cuối đông
2480- Cùng Dương Thế tử anh chồng ngô nghê
Người anh đầy ắp vụng về
Tình anh lành lạnh tái tê thế nào?
Đêm về đứng ngắm trăng sao
Ngày ôm đống sách ra vào ngẩn ngơ
Bỗng nhiên biến mất bất ngờ
Bỏ sau lưng nỗi mong chờ mòn xanh
Rồi đùng tin đến chẳng lành:
- Rằng Người vừa đã đoạn đành thiên thâu!”
"Nhớ lần năm ấy cuối thu
2490- cùng trang tuấn kiệt mày râu động phòng
là Vũ Văn Nhậm tướng quân
Tuần trăng giục bước chinh nhân quan hà
Hai năm mỏi liễu mòn hoa
Rồi nhà xáo thịt nhồi da đoạn trường
Còn gì đâu để mà vương
Nên thân xuống tóc nhập đường thiền môn
Thầm mong giải thoát linh hồn
Khỏi vòng tục luỵ chen bon hồng trần
Vọng về từ cõi xa xăm
2500- Người anh hùng đã lỗi lầm chết oan
Hồn vương theo ánh lệ vàng
Thiên thu ôm tiếng oanh than cuối trời
***
Chương10
Ầm ào đạn pháo khắp nơi
Thành Hoàng Đế khói lửa người lao xao
Cửa Đông Thị Nại pháo vào
Cửa Tây cung giáo rít gào suốt đêm
Nhìn con hai đứa sau thềm
Quanh bên mộ mẹ như mềm nhũn ra
Suốt ngày ngồi đứng ươm hoa
2510- Thâu đêm ôm sợi khói ngà hương trăng
Nỗi đau nỗi nhớ trọc trằn
Nỗi lo thời thế nỗi căm giận mình
Bao làn sóng rít quanh tim
Lê Lương cúi mặt lặng tìm dấu xa
Theo lời nghĩa phụ nói ra:
"Tổ tiên con vốn họ nhà Nguyễn Vương
sau vì cuộc chiến quan trường
cả nhà bị giết triệt đường nối tông
ta vì đền mối thâm ơn
2520- nên trời sai nhận làm con trong nhà!…”
Lòng Lương lại lắm nhạt nhoà
Mắt cay cay rát trí hoa hoa buồn
"Thì ra vốn gốc thân vương?
Ông trời chưa nỡ tuyệt đường ta đi
Biết đâu thời thế gặp thì
Thân ta lại được lễ nghi triệu mời!…”
Nghĩ rồi Lương ngước lên trời
Qùi bên mộ vợ viết lời từ ly:
"Trường tình khóc phận nữ nhi
2530- mày râu tấu khúc ai bi thay nàng
nơi đây đã khắc đá vàng
Tấm bia gởi lại giọt vàng trăng gieo!”
* **
Bên tai vọng tiếng hiểm nghèo
Trong lòng tiếng giục cheo leo gió ngàn
Cùng con hành lí vội vàng
Nửa đêm đùm túm xuôi đàng hướng đông
Qua vài mươi dặm nương đồng
Leo lên sườn núi chập chùng khói sương
Hai bên cây đá uốn lườn
2540- Trải dày hoa lá một vườn thiên nhiên
Vào sâu thấy một cửa thiền
Vách lưng đá dựng áp nghiêng tựa thành
Bệ hương –mảng đá sáng xanh
Chủ nhân đang bận tâm thành phương xa
Bình minh vén ánh trăng tà
Cha con ngồi giữa Núi Bà tìm phương:
"- Nơi này rừng núi chon von
quan quân chắc chẳng ngó dòm tới chi!
- Ta chờ thời cuộc đổi thay
2550- trái rừng rau muối nơi này lánh thân!
- Hai con lắng dịu tinh thần
cùng chia xẻ cuộc phong trần với nhau!
- Nếu mà quân Nguyễn đến nơi
chắc rằng máu chảy đầu rơi đẫm đường
- Nhà ta nhiều nỗi oan khương
tránh sao khỏi khúc đoạn trường biệt ly!”
* **
Nỗi lo đã đến bên nghì
Quân binh nhà Nguyễn lầm lì súng gươm
Cổng thành Hoàng Đế nập nườm
2560- Đá tên hoả hổ rít ầm bùng rơi
Trong ngoài mùi máu tanh hôi
Xác người thối rữa bọ giòi ngo ngoe
Lại thêm oi bức mùa hè
Đất trời Qui phủ bết be hơi nồng
Dân làng chui rúc ven sông
Đói cơm khát bệnh thây chồng lên nhau
" Chiến tranh ơi! Đất nhục màu?
Mầm xanh ơi! Đợi cành sau đâm chồi!”
Và ngày kia đã đến nơi
2570- Cổng thành bị phá dẹt rời hai bên
Quân Tây Sơn ngược đường lên
Dòng sông Kôn nước tủi hờn ngoái theo
"Soi bao nhiêu phận đời nghèo
Chở bao nhiêu cảnh bọt bèo trên sông
Trôi bao nhiêu cảnh đợi chồng
Xoá bao nhiêu chữ tơ đồng trêu ngươi”
Tàn quân xao xác bóng người
Rừng Tây Sơn Thượng ngậm ngùi chờ tin
* **
Phập phồng tiếng vọng Phú Xuân
2580- Triều đình Cảnh Thịnh ngập ngừng Đắc Tuyên
Thái sư cố gộp binh quyền
Để xoay thời thế làm nghiêng cơ trời
Bày ra nhiều kiểu ăn chơi
Xui Vua Cảnh Thịnh xa rời việc quân
Rắp tâm hãm hại trung thần
Đày Trần Văn Kỉ vào rừng trông voi
Thay vua viết chiếu triệu vời
Ngầm mưu giết Dũng, Lân nơi Bắc thành
Bó chân Văn Sở, Thị Xuân
2590- Dựt dây Quang Diệu phân vân vòng ngoài
Một mình ôm lấy hai ngai
Đắc Tuyên lật ngược con bài quân cơ
Thị Xuân lòng rối như vò
Nhìn chồng- Quang Diệu đắn đo tỏ lời:
"Tình hình nguy cấp lắm rồi
Nếu ta không quyết ắt trời không dung
Dứt dây thì sợ động rừng
Khó ông Văn Sở đã hừng chí gian
Kèm theo một lũ tham quan
2600- Giăng dây bủa lưới rình rang cung đình
Ta cần động tĩnh cho nhanh
Nhân Tuyên sai Sở Bắc thành âm mưu
Mật thư chuyển trước đánh liều:
‘giết Ngô Văn Sở! Hồi triều giết Tuyên!’
nếu mà thuận gió xuôi thuyền
có khi mối hoạ cũng yên phần nào!”
Vợ chồng cạn chén âm hao
Ngày đêm cẩn mật đón rào kẻ gian
Để cho kế sách chu toàn
2610- Tướng quân Xuân- Diệu phương Nam trương cờ
Cận thần thân tín ngẩn ngơ
Hoang mang nhìn cảnh bến bờ chuyển rung
* **
Phương Nam lòng Nguyễn tưng bừng
Chiêu hiền rộng cửa đón mừng Đặng Siêu
Người này lắm kế nhiều mưu!
"Lê Trung chết ức Quang Huy bỏ mình!”
Thù nhà Lê Chất hàng binh
Theo chân Nguyễn Ánh liều mình lập công
Thành Hoàng Đế- phủ Qui Nhơn
2620- Đổi thành Bình Định khắc tên sơn màu
Nhìn qua Võ Tánh- Tùng Châu
Nguyễn Vương đắc ý gật đầu lệnh ban:
"hai ông chuẩn bị tinh thần
hiệp quan trấn thủ an dân nơi này!
Tàn dư Nhạc phải thẳng tay
Nhổ cho sạch rễ chớ rày buông lơi!
Dò tìm tông tích từng nơi
Như xưa nó giết hết người nhà ta!”
Tùng Châu nghe thế khóc oà:
2630- Lạy tâu Vương Nguyễn xin qua sự tình:
"mong người suy xét anh minh!
làm như thế hoá hẹp tình khó thay!
ngàn xưa cho tới thời nay
tấm lòng minh chúa vòng tay hải hà
đừng vì một chút lo xa
mà quên hai chữ đó là lòng dân!”
Vương nghe, tâm trạng bần thần
Ngó xuôi ngó ngược ra sân thở dài
"Quay nhìn suốt cuộc trần ai
2640- Ăn bờ, ở bụi, rước ngoài, dày trong
Lách luồn bất chấp nghĩa nhân
Miễn sao giành được giang sơn bao đời
Hoàn hồn ngắm lại cơ ngơi
Lâng lâng tấc dạ bồi hồi tâm can
Trong sâu thức nỗi kinh hoàng
Bờ sinh bến tử bàng hoàng máu me
Lôi Vương đi thả Vương về
Dạy Vương cung cách chỉnh tề quyết tâm
Dạy Vương biết nhắm đúng tầm
2650- Mũi tên vận mệnh phải nhằm mục tiêu
Dạy Vương biết lượng hướng chiều
Lượng lui lượng tiến lượng yêu lượng thù”
Mĩm cười, Ánh xoá ưu tư
Quay nhìn em rễ gật gù ngợi khen:
" ngày mai thống nhất hai miền
Tùng Châu – Võ Tánh một thiên sử vàng!”
* **
Chương 11
Bắc thành, Văn Dũng, Văn Lân
Nhận thư Quang Diệu Thị Xuân nội tình
Tức thời: giết Sở, hồi kinh
2660- Bắt Tuyên Thái Uý chém liền trong đêm
Phanh phui một số tên kèm
Giục vua Cảnh Thịnh giăng đèn chiêu an
Nhưng vua non quá kinh hoàng
Khóc kêu trách mắng ầm vang cung đình
Lòng dân ngao ngán điêu linh
Lòng quân sợ hãi tâm tình hoang mang
Hoàng triều âm khí lạnh tràn
Mỗi quan tướng tựa nấm vàng khói hương
Lờ mờ phép tắc kỉ cương
2670- Một dây oan trái lắm đường rối ren
"Phú Xuân nghìn nghịt mây đen
Còn đâu ánh sáng lắp tên nhắm thù
Còn đây cái cõi âm u
Còn đây cái cảnh tù mù trêu ngươi
Còn trong ánh mắt ngùi ngùi
Rưng trong vàng vỏ nét cười hoàng hôn”
"Mới đây! ngửa đón dập dồn!
Đón hào quang toả rực hồng nước Nam
Đón ngày giặc rã dân an
2680- Đón mùa xuân khúc khải hoàn Thăng long
Đón mời hiền sĩ ngoài trong
Đón ngày mai đất Quảng Đông nối bờ!”
"Còn bao nhiêu việc đang chờ
Bỗng dưng trút xuống bất ngờ chữ tan
Phát ra nghe một tiếng Đoàng
Một vùng trời đất chói chan mảnh hồng
Một vùng tan tác khói bông
Liu riu vào cõi muôn trùng mù tăm
Lan man bao tiếng thì thầm
2690- Lơ mơ bao mớ lỗi lầm lung lay!”
"Giờ đang ngửa mặt hao gầy!
Mà sao chưa thấy một ngày nắng trong
Bầu trời âm ỉ gió giông
Đất long lanh ánh sương hồng cỏ hoang
Mặt người lấm láp mơ màng
Nấp sau vườn chuối vồng lang lén dòm
Đêm về như thấy xa hơn
Ngày sang lại thấy chập chờn giấc khuya
Thêm bao nhiêu ánh đầm đìa
2700- Mong mùa nồm tới bến kia thuyền vào
Hào quang mở cánh ba đào
Khung xưa chờ được lắp vào cửa sanh!”
* **
Trời Qui Nhơn lại tối tăm
Giòng sông Kôn lại sóng gầm lũ bương
Rừng Tây Sơn thượng bão nguồn
Dân thành Bình Định lệ tuôn hai dòng
Cửa thành dựng kín giáo gươm
Hướng Đông Tuyết, Dũng rập rờn thuỷ binh
Hướng Tây, cờ Diệu xuôi chinh
2710- Cù Mông Long, Lộc thập thình trống quân
Ép vào ba mũi giáp công
Mặt thành Bình Định ngửa trông lên trời
Quan quân nhà Nguyễn rã rời
Nhìn kho lương cạn Tùng Châu than thầm:
"thế cùng đành phải xả thân
tấm lòng trung nghĩa há ngần ngại sao
chỉ mong giảm bớt máu đào
xé thân ta làm tấm phao cứu người!”
Than xong Châu ngửa mặt cười
2720- Cầm chai thuốc độc uống tươi một lèo
Cháy lòng Võ Tánh lao theo:
"Tùng Châu ơi! Kiếp bọt bèo đã tan
Hai ta cũng lắm đá vàng
Chờ ta cởi áo từ quan đi cùng!”
Nói xong, Tánh đóng cửa phòng
Tưới dầu châm lửa rực hồng tấm thân
Lửa lên ngùn ngụt mấy tầng
Lập loè rơi tiếng nghĩa nhân quanh thành
Quân binh buông giáo trốn nhanh
2730- Cờ Tây Sơn cắm giữa thành trống không
Diệu nhìn Dũng, Tuyết nhìn Long
Mỗi quan tướng một nỗi lòng riêng tây
Năm xưa cũng chính nơi này
Sắc màu chiến thắng thắm dày niềm tin
Long lanh chứa biết bao tình
Đậm đà hương tết dịu lành nắng xuân
Giờ sao lửa trận bập bừng
Mà lòng quân lại ngập ngừng chiến công
Mà lòng dân lại phập phồng
2740- Mà lòng quan tướng mông lung bến bờ
Diệu nhìn Châu, Tánh- Đống tro!
Tấm lòng trung nghĩa lờ nhờ hư không
Rồi như lòng lại nhủ lòng
Nhắc anh thực hiện chữ ‘Nhân’cuộc đời
Truyền quân tẩm liệm từng người
Tiễn đưa Châu, Tánh về nơi vĩnh hằng
Xong rồi viết hịch an dân
"Mong dời vận khí vượt tầng thinh không
Mong đem một chữ tơ đồng
2750- Biến dây tơ nhỏ thành vòng hào quang
Biết đâu trong ánh sáng vàng
Nương theo hơi thở nhập tràn vào thân
Phát ra âm tiết giai tầng
Lồng vào tiếng nói nghĩa nhân con người
Lồng vào cuộc thế ngược xuôi
Vòng qua định mệnh mà cười rủi may! ”
"Chữ đồng rọi ánh quang huy
Chữ tâm nghe đã xám chì chân mây
Có khi khuất chữ hao gầy
2760- Mà quên đi chữ đổi thay vận hành
Bảy màu đen đỏ vàng xanh…
Thay bằng màu trắng chữ ‘thành’ đủ chưa?”
***
Trời hết nắng lại đến mưa
Mùa đông thay áo mùa hè lại sang
Thuyền quân súng pháo giăng hàng
Nguyễn Vương nhìn nỗi giang san nao lòng
Cơ đồ đang ở tầm mong
Phải nhanh để khỏi nhụt lòng ba quân
Trương cờ hướng thẳng Phú Xuân
2770- Nửa đêm đổ bộ lửa bừng khắp kinh
Trước thành, Ánh đứng điều binh
Giục quân áp sát cung đình bao vây
Giăng hàng đốt lửa móc dây
Tầm tên mảnh pháo rắc dày vào trong
Thủ thành Nữ tướng Thị Xuân
Bất ngờ: ‘sợi tóc ngàn cân’ thắt lòng:
"Tiên Vương ơi! Nước cạn dòng
thôi thì sống thác quyết lòng báo ân!
Chỉ buồn một nỗi ấu quân
2780- Ngây ngô hoá một gã đần đáng thương
Tối ngày ham hỉ buông tuồng
Hết gà chọi lại nập nờn cá chim
Hết nhắc Cậu lại xui em
Say sưa gà đá chém hiềm Lê Trung
Thương thay một bậc công thần
Lưỡi đao oan nghiệt đầu thân đoạn lìa
Lòng đau Lê Chất khóc cha
Theo hàng quân Nguyễn mới ra cảnh này
Than ôi! Trời rộng đất dày
2790- Tiên Vương ơi! Nỗi đắng cay bẽ bàng!
Chưa tròn hợp đã vuông tan
Chưa xanh sao nỡ sớm tàn hoa tim?
Chưa căng sao đã vội mềm
Ánh dương lảng tránh bóng đêm mò tìm
Quần thần văn võ lặng im
Ôi thôi! Cơ nghiệp đảo điên mất rồi!
Bao lời tâm huyết đã vơi
Xin trời chứng giám lòng tôi trước giờ!”
Than xong, Xuân phất cao cờ
2800- Thúc voi xông trận đạp bờ địch quân
Chớp lên song kiếm như thần
Ngỗn ngang thây đứt lan tràn máu tuôn
"Giục quân cấm vệ dọn đường
Dắt vua, gia quyến tẩu phương Bắc thành”
Còn mình tả đột hữu xông
Tượng binh hiệp trận ùn ùn đạp bương
Dưới trăng xác chết cựa trườn
Vòm cây loang lỗ tàng sương nhập nhoà
Vòng vây như giãn xa ra
2810- Hướng Tây voi ngựa quân và Xuân dong
Phía sau thành luỹ Phú Xuân
Ầm vang quân Nguyễn hét mừng chiến công
Vào cung Nguyễn Ánh ngước trông
Sân rồng điện ngọc có phần hơn xưa
"Mà sao bụi cát loang mờ
Lô nhô lắm ổ tò vò nhện giăng
Long sàn lành lạnh khói băng
Điện vua rờn rợn bóng trăng oan hồn
Bao năm bão táp dập dồn
2820- Ngờ đâu lá rụng cội nguồn gặp nhau
Hôm nay ta ngẩng cao đầu
Quyết soi chí cả năm châu hả lòng!”
Vương nhìn suốt dọc biển Đông
"Thấy trong thân một con rồng quấn ngang
Thấy mình oai vệ hiên ngang
Hai tay vịn lấy ngai vàng đứng lên
Triều thần văn võ tôn nghiêm
Bắc nam một cõi cúi nghiêng chúc mừng!”
Trong Vương lại bỗng ngập ngừng
2830- "Lòng dân, lòng tướng có cùng vì ta
Có cùng vì một sơn hà
Đấu lưng chung sức can qua bất kì”
Lại nghe bao tiếng thầm thì
Từ thời mở nước vân vi từng lời:
"Rằng con đã nhận mệnh trời
gắng công mang lại cho đời ấm no!
nước ta liền suốt cõi bờ
bắc nam là một sờ sờ ngàn năm
chỉ vì chúa Trịnh dã tâm
2840- tóm thâu quyền lực nẫy mầm cách chia
nay vua Lê đã an bề
Trịnh thì tan rã dạt về cõi không
Muôn dân đã hướng một lòng
Con mau thống nhất Lạc Hồng từ nay!”
Lòng Vương nửa tỉnh nửa say
Nửa lơi nắng nhạt nửa dày mưa thưa
Nửa chín xanh nửa như vừa
Nửa đang đời thực nửa chưa giấc hoè
Nửa còn e ấp sương che
2850- Nửa vương thiên cổ nửa về hoàng kim
Nửa xôn xao nửa im lìm
Nửa môi cười nụ nửa tim sôi trào
Lòng Vương lại những âm hao
"Thù nhà nợ nước biết bao đoạn trường:
Ngoái nhìn bao cảnh tang thương
Anh em chú bác máu xương cấu cào
Họ nhà trải sức cần lao
Di dân mở nước dựng rào biên cương
Cùng dân hùng cứ một phương
2860- Mong giang sơn mới- thiên đường ấm no!
Bỗng đâu dòng lũ bất ngờ
Bương qua cuốn rẹp cõi bờ tổ tiên
May đâu còn chút nhơn duyên
Giúp ta chèo chống con thuyền biển khơi
Giúp ta xoay hướng cơ trời
Lái con thuyền mệnh vào nơi bến bờ
Nhìn vào kẻ tóc chân tơ
Thù nhà không thể ngó lơ căm hờn?
Nguyện lòng truy tróc Tây Sơn
2870- Mẩu xương quyết nhặt oan hồn không tha!
Chờ mai xong việc sơn hà
Ai can gián sẽ làm ma không đầu!”
Vương nghe từng giọt canh thâu
"Phương Nam em gái ôm sầu khóc thân
Gào lên hai tiếng ‘Lang quân’
Đất Bình Định đã thiêu thân cứu thành
Mười lăm lăm mấy chiếu chăn
Mười lăm năm khói phong trần chiến chinh
Dặm xuân vừa bén đêm tình
2880- Đã nghe tiếng giục thầm thình trống quân
Vọng soi chiến thắng vang lừng
Màu trăng quan tái ngập ngừng phấn hương
Ngọc Du - Võ Tánh đoạn trường
Thương em, khóc tướng lòng Vương sóng trào
Bầu trời rụng mấy vì sao
Giang sơn mất mấy anh hào vì ta
Cao xanh dời đổi thiên hà
Con người lèo lái phong ba vận hành
Con người vốn thứ quả xanh
2890- Con người vốn giống hiền lành đười ươi
Bàn tay hái lấy quả người
Hàm răng cắn lấy quả tươi nhai dòn
Khắp sông hồ dọc núi non
Lao xao lố nhố xanh rờn đười ươi!
Ta đây cũng một con người
Làm sao giấu được cái đuôi giống nòi?”
Nghĩ xong Ánh lại phì cười
Nhìn qua cái bóng đười ươi đời mình
***
Từ thành Bình Định chông chinh
2900- Người dân Bình Định vô tình vua xưa
Lòng quân tướng lắm bơ phờ
Giòng sông Kôn nước lờ nhờ rong rêu
Rừng Tây Sơn Thượng tiều điều
Từng cây sơn giống liêu xiêu khô cành
Bỗng ầm tiếng trống vọng canh
Hung tin cấp báo kinh thành Phú Xuân
"Vua Tôi thất thủ vào rừng
hiện giờ quân Nguyễn truy lùng khắp nơi
triều đình cung cấm tơi bời
2910- tiếng la tiếng thét đầu rơi máu tràn
cả nhà Trần Mẫu chúng giam
Còn Xuân- Đô Đốc hướng Nam ngược vào!”
Nghe qua lòng Diệu nghẹn ngào:
"Mắt đang từng mảnh trăng sao chói loà
Nhìn về dằng dặc phương xa
Nhìn bà cháu dưới mái nhà kinh đô
Nhìn người vợ níu sắc cờ
Cố xoay nền móng cơ đồ vực lên
Bỗng ào mây khói bồng bềnh
2920- Tuôn theo dòng thác lênh đênh chân trời
Quân thần cách trở trùng khơi
Long , Lân đã bỏ cuộc chơi quan trường
Xuân Phong, Xuân Bảo đơn phương
Tuyết, Tú, Lộc ở cuối đường Bắc xa
Nơi này còn Dũng và ta
Lòng quân mệt mỏi sơn hà mong manh
Cố lòng dốc cả bình sanh
Một phen sống mái phải đành thế thôi!”
Nghĩ rồi Diệu quyết thành lời
2930- "Vẽ chương kế sách định nơi trận đồ
Chia ra hai đạo binh cơ
Vòng theo Thượng lộ, men bờ thuỷ quân
- Ta thì cánh bộ Trường sơn
- Còn anh Vũ Dũng trương buồm thẳng ra!
- Cố công gặp được vua nhà
- Thủ thành Trường Dục đợi ta họp bàn!”
Xong truyền phát lệnh ba quân
Cửa thành Bình Định âm thầm bóng đêm
Đường rừng đèo dốc chông chênh
2940- Gặp cơn mưa hạ thác nguồn trắng lăng
Quân lương ngày một khô dần
Lại thêm dịch tả sốt rừng tràn lan
Điểm binh còn lại hơn ngàn
Tong teo thể xác héo hon mặt mày
Cây thương lẫy bẫy đôi tay
Cán cờ gió vuột cuốn bay dật dờ
Diệu nghe từng nỗi bơ phờ
Từ trong sớ thịt qua bờ mắt sâu
Từ trong động tĩnh đứng ngồi
2950- Nghe trong vô vọng nói lời cảm thông
Bỗng đâu có tiếng voi gầm
Rồi nghe quân báo:”Thị Xuân- tướng Bà
Cách đây một đoạn không xa
Cùng hơn trăm lính bôn ba dò đường!”
Diệu nghe như thắt can trường
Dây tơ định mệnh cố hương buổi đầu
"Giữa ngày năm ấy mưa ngâu
Từ ngày năm ấy đôi đầu sớm trưa
Nhìn qua đâu đó như vừa
2960- Trải qua một giấc mơ chưa đuôi đầu!”
"Ước gì được một giấc sâu
Để ta gội sạch mái đầu trắng sương
Cùng ai phơi tấm lụa hường
Giúp cho mặt đất rộng đường nắng soi
Dạy con hai chữ làm người
Chữ trung chữ hiếu một lời khắc ghi!”
"Bỗng đùng trời đất ầm ì
Gió giông sấm sét biệt li nắng đào
Vỡ rơi từng mảng trăng sao
2970- Tóc tang nghẽn rối ngọt ngào tản bay
Xoay người còn ngợ đôi tay
Nhìn vào thì đã an bày như mơ
Đâu ai biết được chữ ngờ
Bao điều may rủi đang chờ phía sau
Đang nhen nhuốm để chuyển màu
Hay gieo hạt tử đợi trồi mầm sanh?”
Từng đêm Diệu ngắm cao xanh
Thiên cơ chừng đã vận hành chuyển nơi!
Thôi đành lui bởi cơ trời
2980- Nhưng còn một nỗi bời bời ruột gan
Người xưa dạy chữ ‘Tam Cang’
Chữ ‘Trung’ được xếp trên hàng ‘Hiếu Nhân’
Con ta cùng với Mẫu thân
Ôm nhau kêu khóc trong hầm thiên lao
Thân ta nếm đủ ngọt ngào
Nỡ lòng để mẹ máu trào đầu rơi?
Chắc đành quì gối chịu lời
Mai sau hậu thế mĩa cười cũng cam!”
Nghĩ rồi, Diệu nói như than:
2990- "Xuân ơi! Một chút đá vàng có nhau!
Ngày mai nắng có đổi màu
Bầu trời Xuân Diệu trước sau vẫn hồng!”
Than rồi Diệu vượt qua sông
Thị Xuân đang đứng vẫy chồng bờ non
Vợ chồng giáp mặt đang còn
Nhìn nhau chưa rạng dập dồn hai tin:
"-Cánh quân Vũ Dũng gãy buồm
Gặp cơn bão xoáy rách tươm ghe thuyền
Hằng ngàn binh lính chết chìm
3000- Vài trăm sống sót lim dim thất thần
Lờ đờ dạt cửa Linh Giang
Gặp Lê Văn Duyệt dẫn quân sục lùng
Xạc xoài từng tốp đói run
Dìu Đô đốc Dũng sốt rừng mê man
Nửa đêm bị bắt cả đoàn
Giải vào giam ở Nghệ An trạm chờ!”
"Khắp nơi quân Nguyễn lượn lờ
Xuân Phong lâm bịnh xanh mồ Hoành Sơn
Xuân Bảo hộ giá Vua Con
3010- Đánh sau chặn hậu lọt vòng địch vây
Quan binh nhà Nguyễn rải dày
Lần theo dấu vết quân Tây Sơn tàn!
Từ phương Nam ra Nghệ An
Một bờ thông suốt Nguyễn Hoàng điểm binh! ”
Vợ chồng Xuân- Diệu vói nhìn
"Nhìn qua hồi ức nét hình hài xưa
Lặng lờ như bóng mây trưa
Bên giòng sông cũ lưa thưa nắng vàng
Đung đưa hoa lá hương ngàn
3020- Dọc bờ lau lách sóng trườn gió ngân
Mấy vò rượu ủ men lung
Chíp môi còn ngọt khí hùng đất thiêng”
"Diệu nghe giòng chảy xa triền
Bao nhiêu hương vị vào miền mênh mông
Còn bên hai chữ vợ chồng
Ngồi ôm một khối tơ đồng nhìn nhau
Nói rằng duyên trước nợ sau
Mà sao nợ lại nát nhàu duyên xưa
Nợ đời, nợ nắng, nợ mưa
3030- Nợ nơi dưỡng dục nợ mùa máu xương
Nợ trong từng khúc đoạn trường
Hình hài cát bụi khói sương quê nhà?
Trăm năm làm kiếp người ta
Vòng vo qua lại chiếc phà bon chen
Hoá công vẫn một cây đèn
Thân người vẫn cứ nhá nhen triền đời
Chỉ là một cuộc dạo chơi
Hay là một cuộc di dời đỏ đen
Nơi đâu sang nơi nào hèn
3040- Lần mò hụp lặn mùn đen dát vàng
Để rồi tích tịch tình tang
Một vùng mây nước mơ màng chảy qua!”
Lòng Xuân thì cứ nhập nhoà
"Giá như ngày ấy đừng là hôm nay
Giá như trái đất đừng xoay
Vẫn nguyên đường nét râu mày thuyền quyên
Kiếm cung trăng suối hoa triền
Ngao du sơn thuỷ ngửa nghiêng rượu đàn
Lấy gì đâu để thở than
3050- Lấy gì đâu để bàng hoàng nhớ ra
Lấy gì đâu để xót xa
Lấy gì đâu để bướm hoa khô hồn!”
Diệu nhìn Xuân gạt tủi hờn:
"Đổi thân cứu mẹ đền ơn sinh thành!
cho dù có bị ô danh
thịt xương có bị tan tành cũng cam!
Thân dâu ắt phải nghiệp tằm!
Thân sen thì phải nghiệp đầm bùn tanh
Thân dây phải luỵ nghiệp cành
3060- Thân gươm chờ nghiệp máu xanh đoạn lìa
Đừng vì bầy cá lia thia
Mà làm nhem nhuốt nét bia trang đài!”
***
Chương12
Tháng Năm một tám linh hai
Nguyễn Vương Phúc Ánh lập đài đăng quang
Lên ngôi Hoàng Đế – Gia Long
Đổi Nam Việt thành Việt Nam nước nhà
Dồn quân chiếm lấy Bắc Hà
Tướng Lê Văn Duyệt giá xa chiến trường
Theo bên Lê Chất, Văn Trương,
3070- Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường điểm binh
Cờ trương, trống giục thùng thình
Hai đường thuỷ bộ rập rình súng gươm
Quân Tây sơn tản lạc hồn
Chưa thua đã bỏ luỹ đồn rút lui
Từng ngày quân Nguyễn reo vui
Từng ngày Cảnh Thịnh sụt sùi trách thân
Từng ngày dân lính xa dần
Từng ngày đất Bắc bất cần Vua Nam
Hè nhau nói xấu Tây Sơn
3080- Hùa nhau nói tốt Nguyễn Vương bao điều
"Gió nồm mai Gió nồm chiều
Mong cho nồm thổi tấp nhiều điều may”
Xin trời đừng trở heo may
Để thuyền Chúa Nguyễn đêm ngày nhanh ra!”
Bắc thành quân tướng nhập nhoà
Võ Đình Tú, Tuyết lưới sa bỏ mình
Văn Lộc thọ bệnh quyên sinh
Anh em Cảnh Thịnh dân rình bắt giam
Tù nhân áp giải từng đoàn
3090- Vũ Văn Dũng, vợ chồng Xuân chung đường
Đang leo qua ải Hoành Sơn
Bất ngờ gặp toán áo đen cướp tù
Hai bên một trận hoả mù
Năm trăm lính Nguyễn tả tơi chạy dài
Toán quân cướp ấy là ai?
Người đang trước mặt rõ ngài Văn Long
Bốn huynh đệ lại mủi lòng
Nhìn nhau từng nỗi âm thầm riêng tư
Thấy trong ánh mắt mỏi nhừ
3100- Thấy qua đầu óc bù xù rối ren
Mặt trời đêm đốt cháy đen
Mặt trăng mưa ướt nhon nhen khói mờ
Ven rừng trăng trắng hoa mơ
Ven lòng ngờ ngợ nỗi ngờ mang theo
Dũng và Long nhẹ kiếp bèo
Vợ chồng Xuân Diệu nhìn nhau theo tù
Con đường mài tấm thân hư
Lào khào lộc cộc rừ rư bao ngày
Kinh thành trước mặt cờ bay
3110- Thương Trần Quang Diệu chân tay lạnh dần
Xe tù chưa kịp vào sân
Môi anh chưa kịp:”Mẩu thân! một lời!”
Hồn anh đã lướt lên trời
Thân anh trả lại nghiệp đời bụi tro
* **
Phú xuân, quân Nguyễn hét hò
Lớp hàng người ngựa chực chờ lệnh ban,
Tù nhân gông cũi chật sân
Từng ông đao phủ quai hàm bạnh ra
Mặt xanh hai mắt trắng ngà
3120- Lưỡi đao sáng ướt ánh qua thân người
Pháp trường trống đổ hồi tươi
Tiếng đao phầm phập, tiếng rơi phạch phành
Tiếng cười rin rít kẻ răng
Tiếng ai thườn thượt quại quằn tầm trông
Tiếng kêu tiếng rú chất chồng
Tiếng chuông dằng dặc tầng không ngân dài
Một ngày màu máu quánh ngai
Vua Gia Long đứng trước đài tế gươm
Môi Vua lời đặc cuộn cườm
3130- Mắt Vua hốc lửa lườm lườm ánh xanh
Trong ngoài quan tướng lạnh tanh
Từ Siêu, Duyệt, Đức, Văn Thành, Văn Trương,
Quan cơ hội Đặng Trần Thường
Quay ngang trước cảnh đau thương ngút trời
Bỗng nghe tiếng gọi:”- Anh ơi!”
Từ trong Hoàng tộc một người bước ra
Vịn ngai quì xuống khóc oà:
"Sao anh lại nỡ bày ra cảnh này?
Sao anh chẳng chút xót tay!
3140- Chuyện xưa sao lại đời nay truy đòi?
Bà Xuân ngựa xé rạc rời
Con bà voi đạp tả tơi thân gầy
Xác chồng bà cũng băm thây
Mẹ chồng bà cũng bầy nhầy thịt xương
Ai đem chi khúc đoạn trường
Trải ra trước mặt bao chương hãi hùng
Còn trò đào mã bới xương
Khắp nơi đầy cảnh tai ương oan hồn
Xin anh khép lại oán hờn
3150- Dừng ngay cho! Kẻo chẳng còn kịp đâu!”
Tiếng kêu thiếu phụ thấu trời
Gia Long vuốt mặt âu sầu nhìn em:
"Ngọc Du! Đừng quá yếu mềm!
Năm xưa chúng nó ngày đêm sục tìm
Giết lầm không bỏ sót tên
Cả dòng họ Nguyễn dập dềnh thân ta
Bây giờ thống nhất sơn hà
Muốn cho quốc thái dân hoà phải toan!
Chồng em- Thân cháy ra than
3160- Sao em không xót? Kêu vang nỗi gì?
Lui vào hãy cố im đi!
Quốc gia đại sự nữ nhi miễn bàn!”
Vua nhìn văn võ bá quan
Thấy lưng đáy mắt bụi vàng xốn xao
Thấy trong từng mảng máu đào
Tiếng rên nhầy nhụa tiếng trào lun run
Tiếng cười sằn sặc máu phun
Tiếng ai oán giọt lùn phùn mưa rơi
Vua nghiêng ánh mắt theo người
3170- Nói thêm câu để gút lời năm xưa
"Ngày mai ngưng chém tội đồ
những tên còn lại truyền đưa đi đày!”
Ba người sống sót đứng ngây
Một già hai trẻ chân tay gông cùm
Người già tóc chấm tới lưng
Râu dài tới ngực ngập ngừng nhìn con
Người trai thân thể gầy mòn
Tóc xoăn bù rối che vòm mắt sâu
Người con gái mặt héo sầu
3180- Ngoài hai mươi tuổi áo nâu chốn thiền
Ba người đứng trước cửa duyên
Tấm thân còn vướng nghiệp tiền chưa xong
Chữ sanh chừng đã muỗi mòng
Chợt nghe chữ tử tuột giòng qua phiên
Bây giờ đứng dựa bên triền
Mà nghe thời khắc giục miền ải xa
Lại chờ nhập hội phù hoa
Lại chờ một cuộc vấn tra cội nguồn!
Người già là Hoài Lê Lương
3190- Mười năm rau muối tránh đường binh đao
Mười năm ngồi ngắm trăng sao
Nhìn trang thế sự ba đào đổi thay
Thằng An quanh quẩn cỏ cây
Chí trai chôn dấu vui vầy khói sương
Đêm về con Thái trầm hương
Câu kinh tiếng kệ bên vườn mẹ xưa
Tưởng Trời dịu nắng nhẹ mưa
Ngờ đâu Vua Mới truy về tận nơi
Cha con ngước mặt ngậm lời
3200- Xuôi tay xiềng xích buông đời hố đêm
Tấm thân giờ đã rũ mềm
Tâm can giờ đã lặng im sóng trần
Cũng đành thả mặc đôi chân
Bước theo con tạo qua tầng biển dâu
Lắc lư giữa bến sông sầu
Bỗng nghe tiếng vọng giấc sâu đoạn trường
Từng lời ai oán bi thương
Lan ra từng ngụm sóng hương não nùng
Một bà tóc xõa ngang lưng
3210- Ngồi ôm cửa ngục chờn vờn áo xiêm
Dường như ánh mắt dõi tìm
Chút hương trầm mặc cuối miền hư không
Hai tay vuốt bóng tơ đồng
Hai chân duỗi đạp nỗi trong phạc phờ
Mắt bà rơi những ánh thơ
Môi bà rơi những chùm tơ dát vàng
Rồi như làn sóng lang thang
Tan vào cái cõi mơ màng trong Lương
Mờ xa cuối nẻo vô thường
3220- Hồn bà lướt giữa làn hương vĩnh hằng
Cửa tù lính ngục lăng xăng
Trình tâu bẩm báo dày trong chật ngoài
"Đầu bà máu ướt thấm vai
mắt bà giận dữ ánh dài giương to
môi bà cười mĩm như mơ
tay bà ve vẫy trước giờ ra đi!
Muôn tâu Thánh thượng! Chỉ vì .. .
Ngọc Hân- Bà ấy muốn ghi sử vàng!.. .”
Gia Long cúi mặt bàng hoàng
3230- Truyền đem mai táng sau vườn Ngự lâm
Rồi truyền tha bỗng Lê Lương
Cùng hai con được hồi hương quê nhà
Ba người lạy tạ bước ra
"Ôm theo ngào ngạt hương hoa một người
Mắt nhoà từng giọt nắng tươi
Phú Xuân ơi! Có nét cười cỏ cây
Giang sơn ơi! Có bóng ngày
Những con chim thả lắt lay cánh đào!
Mênh mông đất rộng trời cao
3240- Mang mang giấc mộng thủa nào khôn nguôi …!”
* **
KẾT
Trăm năm nhìn lại kiếp người
Ngây thơ mơ mộng cợt cười tính toan
Giựt giành che giấu bố ban
Sướng vui đau đớn bàng hoàng lệ rơi
Nhìn lên thầm trách ông trời
Nhìn vào thầm cám ơn đời ban ân
Gẫm câu thân nghiệp- thiệp ngân
Rằng tiền là thiệp tuỳ thân bên người
Mời anh- chào món hàng tươi
3250- Mời em- mua một nụ cười giai nhân
Mời nhau - lá thiệp phong trần
Mời đời- lắng khúc trong ngần trường thanh
Lời mơ từng giọt chong canh
Lung linh mảnh sáng vi thanh đoạn trường
Cho dù mai một khói sương
Xin cung kính gửi dòng hương tâm thành
HẾT
Qui nhơn ngày 11-5-2009
VŨ ĐÌNH NINH
Thuyền quyên sánh bước Tây sơn anh hùng
Đất trời hoà nhịp vui chung
1360- Thăng Long mở hội tưng bừng như mơ
Ngọc Hân lòng dạ ngây thơ:
”- Chữ ân tình – nguyện tóc tơ đáp đền!”
Huệ cười, nắm lấy tay tiên:
”- Nhờ công quan Chỉnh nối liền Bắc Nam
- Ta còn bao việc phải làm
- ngặt vì một nỗi vua Nam bất bình
- Đàng trong chưa hết đao binh
- Đàng ngoài dân chúng nội tình lo âu
- Bắc Hà không ở được lâu
1370 - chờ vua Nam định, nàng sầu muộn chi…!”
Ngọc Hân rớt giọt thầm thì:
”- một lời chàng đã, thiếp ghi tạc lòng
- kiếp này phận thiếp chỉ mong
- chàng nên nghiệp lớn từ lòng dân ta
- mai kia thống nhất sơn hà
- xin chàng hãy nhớ lời hoa tỏ bày!”
***
Chương 6
Thời gian hạt nước kẻ tay
Lo toan bao việc thêm dày nỗi mong
Hiển Tông hồn bước qua song
1380- Hoàng tôn tài mọn đèo bòng khó khuây
Đành theo ý lũ mặt dày
Lập vua Chiêu Thống làm tay chống chèo
Thuyền buồm cánh gió xuôi theo
Lòng dân dò bước sớm chiều mặn cay
Nỗi lo chưa trút đã đầy
Hai phương dồn lại khoảnh ngày tí teo
Ngọt ngào chưa chín sơn keo
Vua Nam Thái Đức đã vèo ở bên
Tình nhà nghĩa nước thênh thênh
1390- Lòng Nhương đứng giữa chênh vênh chần chừ
Thoáng qua đâu đó tiếng” ừ ”
Lại thêm hai tiếng "từ từ” đi theo
Giật mình ngó trước nhìn sau
Hai đầu vó ngựa trên cầu chiêm bao
Cùng anh cạn đĩa dầu hao
Tỏ bày không đặng càng ngao ngán lòng
Phải đành gút mối tơ đồng
Dây xuân thêm chặt sợi hồng càng son
Ngoái nhìn thành quách chon von
1400- ”Thương thân quan Chỉnh đang còn giấc say
”Đời xưa ai biết chuyện này
”Đời sau ai nhớ đời nay ai tường
”Nghiệp đời Hữu Chỉnh còn vương
”Nên thân nợ vẫn còn nương để chờ”
Tỉnh hồn từ trước tinh mơ
Cha con bôn tẩu theo cờ vua Nam
Gặp nhau Chỉnh – Nhạc cười tràn:
”- Giao ông Chỉnh đất Nghệ an xây thành!”
”- Đáng gờm một bậc tài danh!”
1410 - Băn khoăn lòng Huệ nhập nhằng mối lo:
”Lại thương một phận liễu bồ
”Theo ta nàng dệt bức mơ hiếu tình
”Gam màu tấm lụa phù sinh
”Bàn tay thục nữ sợi tình véo von”
Bên tai vó ngựa câu giòn
Phú Xuân thoáng hiện nước non luỹ thành
”Quyết lòng giấc mộng ba sinh
Sơn hà một cõi cung đình là nơi”
Bâng khuâng cảnh cũng như người
1420- Gặp nơi kì ngộ khó dời chân đi
Một vùng đất nước kiêu kì
Sông thanh núi biếc thầm thì biển dâu
Chừng như hoá giải cơn sầu
Chừng như thanh thoát cái màu trớ trêu
Theo bên tướng giỏi phần nhiều
Nhìn Nhương như muốn nói điều xả thân
Từ Long, Quang Diệu-Thị Xuân
Văn Dũng, Tú, Tuyết, Sở, Lân, Lộc, và…
Quân tình nhấp nhổm, nhấp nha
1430- Vua anh Thái Đức xót xa hồi triều
* **
Về cung lòng nóng như thiêu
Vua Nhạc truyền buổi thiết triều khẩn trương
Hai hàng văn võ cúi buồn
Vương Thung – mưu sĩ tìm phương sách hoà
Không ngờ trúng kế quân ngoa
Anh em – cái hố bất hoà thêm sâu
Lòng vua chất nặng gánh sầu
Một phen trằn trọc ba hồi ngẩn ngơ
Bọn gian chìa mỏ chực chờ
1440- Xui vua giam tất người nhà quan Nhương
Lại thêm một khúc đoạn trường
Nhồi da xáo thịt đẫm chương sử hồng
Thành Hoàng đế những ngày đông
Cửa đầm Thị nại gió giông ngất trời
Cánh buồm chưa vượt xa khơi
Mà trong khoang đã rệu rời cột cây
* **
Sau hơn một tháng đông đầy
Xác xao vườn mẹ hao gầy cành con
Ì ầm đại bác đầu non
1450- Ầm ào sóng dữ ngoài cồn sục sôi
Phương Nam Nguyễn Ánh đổi đời
Sông Gầm, Rạch giá nối lời Tiền giang
Sài côn Gia định ngổn ngang
Lòng dân giữa ngả ba đàng phân vân
Cuối cùng nhờ tiếng Mẫu thân
Nỗi đau máu thịt như lần dịu đi
Anh em xoá mối hiềm tì
Vương Thung mưu sĩ viết di chiếu hoà:
”Phân chia ranh giới làm ba
1460- Trung ương Hoàng đế phủ là Qui nhơn
Phía Nam từ ải Vân Phong
Vào Thành Gia định Lữ Vương nắm quyền
Phía Bắc, Bến ván vùng biên
Bắc Bình Vương Huệ nối liền Nghệ an”
Khoanh chia đâu đó rõ ràng
Một hồi trống lịnh rút quân ra ngoài
Đông tàn lòng cũng nguôi ngoai
Đường về Thuận hoá cành mai rụng mùa
* **
Nhắc qua chuyện trước không thừa
1470- Cha con Hữu Chỉnh như vừa tỉnh ra
Ngược dòng lái cuộc phong ba
Chiêu binh mãi mã xót xa trăm bề
Một thân gánh nghiệp hai quê
Nghệ An canh cánh cửa về Thăng Long
Lòng trời xuôi thuận nỗi mong
Lê Chiêu gọi Chỉnh thong dong quay thuyền
Bắc hà cơ hội dấy lên
Tiếng vang quan Chỉnh nghe rền Phú Xuân
Lòng tham nào có điểm dừng
1480- Lòng ngay nhừ mõi đôi chân đời người
Phương Nam quân Nguyễn khắp nơi
Sóng khơi dòng chảy đỏ ngầu Tiền giang
Lại thêm bọn giặc Tây Dương
Thuyền to súng lớn mở đường đánh ra
Xác xao khốn đốn muôn nhà
Nam bình vương Lữ nhụt xa quay về
Bàng hoàng vua Nhạc tỉnh mê
Sai con vời chú Huệ về sửa sang
Bắc Bình Vương đã sẵn sàng
1490- Ngặt vì Phương Bắc ngai vàng lung lay
Quan tham tá Chỉnh dài tay
Học theo sách Trịnh vẽ mày lấn sân
Bày mưu chiếm giữ Nghệ an
Cử Trần Công Xán, sứ quan thỉnh cầu
Hoàng thân Duy Án dẫn đầu
Vào bàn thượng nghị mượn lời ba hoa
Mĩm cười, Vương sực nghĩ ra :
”- Rõ rồi ! Lão Chỉnh đúng là phường gian
- dụ ông Huỳnh Đức- tướng hàng
1500- lập bè kết đảng mưu toan ý đồ”
Thất thần, Duy Án cầu cô
Mong tình nhi nữ mở cờ cứu nguy
Ngọc Hân lòng nặng lễ nghi
Bên tình bên hiếu nói gì cho xuôi:
”Lòng như thêm nặng nỗi ngùi
”Tâm như vô cảm nụ cười như ngây
”Âm thầm đứng tựa song mây
”Lòng riêng ai biết nỗi này ai thông
”Trần gian sao lắm bụi hồng
1510- ”Trăm năm một chữ tơ đồng trêu ngươi”
* **
Tan sương mất hút bóng người
Bờ xa thuyền sứ còn tươi nỗi ngờ
Nghe trào tiếng thét ngẩn ngơ
Dạt dòng máu uất ngái bờ đau thương
Hồn oan rẽ lối vô thường
Lang thang mù mịt vấn vương cõi người
”Cành đào mới đấy đỏ tươi
”Cành mai nhớ thuở vàng rươi sắc hùng
”Chừ thì tất cả mông lung
1520- ”Hai bờ quan tái lạnh lùng xiết bao!”
Trước gương ngấn lệ tuôn trào
Sau gương những mảng máu đào còn tanh
Đoạn trường oanh, đoạn trường thanh
Đoạn trường phương thảo héoxanh bãi dày
”Trăm năm có được mấy ngày
”Sướng vui đau đớn nhốt đầy gương nga
”Trăm năm được mấy ngôi nhà
”Sau trăm năm đó ai đà có nghe
”Bàng hoàng nhìn ngựa kéo ghe
1530- ”Nhìn sông ngược núi nhìn xe thồ đường
”Trời xa biển rộng sao lường
”Thôi thì ta cứ con đường đã quen
”Mong đời bớt chút bon chen
”Mai về cố quận hờn ghen nỗi gì”
***
Từ Vương tiển sứ ra đi
Tơ lòng mấy khúc tình si mấy bờ
Rồi nàng cúi mặt làm ngơ
Rồi nàng cũng hiểu, hết ngờ vì yêu
Ngọt ngào lại đẹp như thêu
1540- Ngày xuân lại nở lối chiều vàng hơn
Kinh thành dày tiếng sáo đờn
Các quan mũ áo rập rờn bôn ba
Theo về các bậc nho gia
Mưu bàn việc nước cùng ra giúp đời
Trung Thư Văn Kỉ góp lời
Cùng Vương tìm hiểu khắp nơi dân tình
Quan Tư mã Sở luyện binh
Cùng Đô đốc Dũng sân đình núi Bân
Thị Xuân, nữ tướng Tượng binh
1550- Dạy voi lập trận cùng Trần Diệu lang
Văn Tuyết, Văn Lộc, Văn Lân
Cùng Vũ Văn Nhậm- tướng quân trấn đồn
Việc quân thêm những dập dồn
Đợi ngày ra Bắc chớp con sóng thời
Nghe tin, Hữu Chỉnh rụng rời
Cùng con tính chước thay dời thế quân
Hữu Du tâm trạng thất thần
Vua Lê Chiêu Thống tìm đường tẩu dong
Tiên phuông- Nhậm, Sở tiến công
1560- Thương thay Hữu Chỉnh mạng vong trận tiền
Tan tành mộng mị quan quyền
Thân tanh nghiệp chướng một miền nước mây
Nhớ xưa cũng ở đất này:
”Một thời trai trẻ sum vầy xiết bao
”Từng là ông Cống khăn đào
”Bước ra lắm kẻ cúi chào bẩm thưa
”Lòng người sóng giục gió đưa
”Mách bày Chỉnh ván cờ lừa thế nhân
”Ngỡ rằng với ánh mắt thần
1570- ”Xoay quân cờ nghiệp vinh thân toại nguyền
”Xúi Hoàng Ngũ Phúc tướng hiền
”Xua quân đánh Nguyễn vây kiềm Phú xuân
”Định Vương nguy khốn lòng cam
”Bắt Trương Quốc phó giao quan Bắc triều
”Sự đời lắm nỗi trớ trêu
”Phú xuân đỏ mắt khóc mưu Đàng ngoài
”Lại còn bày Phạm Ngô Cầu
”Trấn thành Thuận hoá một thời lánh Ma
”Oan hồn vất vưởng phương xa
1580- ”Hẹn giờ sum hợp oan gia tớ thầy”
”Mới hay cái nghiệp dắt dây
Ngàn năm dường vẫn nặng đầy trong thân”
* **
Vào thành hai tướng Nhậm, Lân
Chiến công thắm đỏ nỗi lòng quê xa
Lân còn một nỗi mẹ già
Nhậm còn một nỗi lời hoa hẹn thề
Từ ngày cách biệt phu thê
Chiến bào khói bụi vỗ về tình riêng
Ngọn lao đã phóng theo triền
1590- Khó mà níu lại mũi duyên nghiệp đời
Gồng mình dạo hết cuộc chơi
Xem chân con tạo di dời tới đâu
Tình cờ quá bước thanh lâu
Gặp người kỹ nữ dãi dầu sắc hương
Lân la một thoáng dặm trường
Tấm lòng nhi nữ càng vương vấn sầu
Nhậm nhìn chưa tỏ hết câu
Nghe trăng vang vọng nhịp cầu như soi
Rằng:”- em chút phận tôi đòi
1600- Xin ai hào hiệp nỗi đời rong rêu ”
Bên nàng như đĩa dầu khêu
Sáng bùng ngọn lửa mượt màu ái ân
Hai tay ôm tiếng thì thầm
Lời chàng siết chặt hương trầm mê ly:
”- Bên ta em phận nô tỳ
- bên em ta gã tình si dại khờ
- đời tình em trải chiếu thơ
- vui hoang ta lội kín bờ thiên thai”
Hư không buông tiếng thở dài
1610- Gió miền quan tái sõng soài dưới trăng
Đã rồi gánh nghiệp vào thân
Trăng hoa ong bướm dần lân bao giờ
* **
Thăng long thắng trận tin về
Bình Vương lên ngựa vượt bờ sông Gianh
Nghe đồn:” tướng Nhậm, phong phanh
lục tìm vơ vét của dân hiếp người
khắp thành ai oán kêu trời
người hiền kẻ sĩ nhạo lời mĩa mai”
Lòng vương sắp sẵn con bài:
1620- ”nhân đây ta dứt sợi dây tơ tình
để ngừa mối hoa đao binh
thế thời phải thế biết đành tính sao!”
Đến nơi quân tướng cúi chào
Lệnh vuơng :” -bắt trói Nhậm vào cột neo”
Mơ màng chưa tỉnh giấc sâu
Nhậm nghe đâu đó :”Than ôi!”- Tiếng nàng
Hồn oan theo gió lên ngàn
Trong mơ còn đẫm giọt vàng thanh lâu
Một thời đạp đất đội trời
1630- Một thời chiến tích rạng ngời châu thân
Một thời sủng ướt nghĩa nhân
Đem cân ngần ấy hoá ngần ấy thôi
Bao nhiêu ánh mắt bồi hồi
Bao nhiêu sắc mặt vẽ lời khen chê
Bao nhiêu cười nụ hả hê
Đem gom cả lại đắm mê con đò
* **
Lòng Vương bao nỗi tơ vò
Nhìn dân bao nỗi bơ phờ tình riêng
Cũng vì thời cuộc đảo điên
1640- Sĩ hiền đất Bắc một miền xác xơ
Nơi đây còn lạ màu cờ
Trong sâu lắng nặng nỗi ngờ người xa
Từng ngày biến động Hoàng gia
Từng ngày máu đỏ chan hoà áo cơm
Đất thiêng người cảnh thêm còm
Gò trăng thiếu phụ chon von khóc chồng
Bốn bề âm khí triều dâng
Niềm đau lại tiếp chất chồng đớn đau
Lòng Vương càng mở càng nhàu
1650- Tâm Vương chưa tịnh đã lau lách dày
Chiến bào khói nặng hai vai
Đâu người tri kỉ giải bày một phen
* **
Tiếng đồn Vương đải người hiền
Ông Nghè Thời Nhiệm được duyên mời về
Hữu phùng tương ngộ hả hê
Lệnh truyền viết hịch vỗ về lòng dân
Vời ông Huy Ích hiền nhân
Cùng bàn kế sách việc quân sau này
Lòng Vương rưng nắng như bày
1660- Như trăng mừng nước rắc dày bến sông
Bắc hà như lại mênh mông
Quan Tư Mã Sở coi trông cung đình
* **
Trăm năm cũng một chữ tình
Mấy ai thấy được cái mình với ta
Đã ai thức trọn canh gà
Mà nghe tiếng vọng la đà tàng sương
Trăng nghiêng dài bóng kiều thương
Lao xao vó ngựa bụi đường vàng bay
Lòng Vương canh cánh đôi tay
1670- Hai bờ Nam - Bắc đường say dặm người
Cuộc cờ hoa mở nước tươi
Chiến công! Chém phức nụ cười quân cơ
* **
Biển dâu xanh lá hững hờ
Càn khôn một gánh nặng đò trầm luân
Tàng thu vàng dọc vách rừng
Chùm tơ tưởng rối sợi chùng tóc hoa
Phú xuân dõi bước quê nhà
Dài bao nhiêu nỗi ngọc ngà chưa kham
Mới hay cái nghiệp nhà quan
1680- Ôm thân bèo bọt luỵ tràn kiếp hương
Một đời được mấy vấn vương
Một thân đẫm khúc đoạn trường vi thanh
***
Chương 7
Về dinh ngày đã sang canh
Cung loan sáng lối con oanh hót chào
Tuần trăng hăm mấy hanh hao
Gió miền quan tái theo vào ngõ thu
Trăng e ấp gió chần chừ
Mùi hương rạo rực chừng như ứa tràn
Yếm âu sau phút bàng hoàng
1690- Giọng oanh thỏ thẻ mạch đàn tỉ tê
Trùng phùng trướng động màn xê
Tường Nam sương khói dầm dề mặc nhiên
* **
Trong triều, Nội thị- Đắc Tuyên
Có đôi mắt cáo thâu đêm nhón người
Đôi môi trề trệ ít cười
Phập phồng mũi đỏ nhìn tươi quả đào
Người to béo, dáng không cao
Là anh Hoàng hậu đứng sau hậu trường
Mưu mô cùng nhóm thân vương
1700- Nhon nhen sàm tấu tiến đường vinh hoa
Sớm chiều cung cấm lân la
Phòng loan hoàng hậu châu sa ngập lòng
* **
Giường trăng gối bóng qua song
Gió ngoài xao xác hoa trong rũ rười
Tuồng đời chèo lộng hò vơi
Đoạn trường xuân sắc bời bời liễu xanh
Giận tình nhen dạ chong canh
Cõi riêng một nỗi trĩu nhành tóc tơ
Tàn đêm bấc lụn châu mờ
1710- Mấy lần quan tái lạnh bờ ái ân
Nhìn con, Quang Toản tủi thân
Trách chi mấy đứa cung tần ngẩn ngơ
Chánh cung! Hai tiếng ơ hờ
Nắng treo làn biếc gió mờ vệt son
Sôi reo nước chảy đá mòn
Tàng đông nghiệp lá chon von thân cành
Thầm thì hơi ấm tình anh:
”Giang sơn âu có tan tành cũng thôi
Tấm thân, còn nợ đất trời
1720- Gánh chi thêm nặng nghiệp đời tấc gang
Tưởng chừng cách mấy quan san
Mà trong chớp mắt nát tan ngọt ngào”
Tình gầy nhan sắc han hao
Phấn son mòn thắm hương đào mòn thơm
Lửa ghen ngày một xanh rờn
Lửa căm đêm hực chờn vờn cơn mê
Lời Tuyên thêm thắt tỉ tê
Nhen bùng ngọn lửa u mê sau này
* **
Chừng như trời chuyển heo may
1730- Cành đông bầy khỉ nhíu mày gáy tin
Núi Bân níu bóng Ngự bình
Cờ Đào phấp phới thầm thình trống quân
Bụi binh hồng rực ải quan
Dòng người, voi, ngựa- Ba tầng rung rinh
Sẵn sàng xong cuộc Bắc chinh
Tiếp theo là việc dân tình đang mong
Lên ngôi- Hoàng Đế Quang Trung
Phát ra bài hịch trùng trùng sóng reo
Nội dung:” vạch tội Lê Chiêu
1740- Qua Tàu cỏng rắn Thanh Triều hại dân:
- Người Tàu, họ vốn dã tâm
ngàn năm xưa biết bao lần xâm lăng!
thời Ngô, Lý nhớ Bạch Đằng
thời Trần- máu giặc Nguyên Mông còn nồng
thời Lê sau, lũ Vương Thông,
Liễu Thăng mượn cớ giúp Trần ùn sang…
Bây giờ thì bọn Thanh Càn
miệng hô giúp Thống, bụng thầm lấn sân!”
Một lời trước mặt ba quân
1750- Rằng :”mồng năm tết vào thành Thăng Long!
- Hởi ba quân hãy một lòng!
- Vì nền độc lập núi sông- Tẩy trần!”
Hai lăm , mười một Mậu Thân
Nhà vua làm lễ ra quân diễu hành
* **
Nhắc Ngô Tư mã Bắc thành
Được tin Chiêu Thống dắt quân Thanh về
Tình hình hỗn loạn tứ bề
Quan binh lo lắng, xóm quê phập phồng
Bóng thù sôi sục tầm trông
1760- Tiếng thù vang vọng núi sông chờn vờn
Nhìn theo thế giặc đậm dần
Sở mời Thời Nhiệm cùng Lân họp bàn
Rằng:” Quân Sĩ Nghị tràn sang,
Thế như thác đổ khó đương lúc này
Chi bằng tạm mở vòng đai
Lui về Tam Điệp lập bài ẩn binh
Thế nào giặc cũng ngang nghinh
Coi thường đối thủ, ta rình úp sau”
* **
Quân Thanh người ngựa chát màu
1770- Dài ba mươi vạn ngập ngời giáo gươm
Lăm le sát khí nườm nườm
Bụi tràn trắng lối khói tuôn mịt bờ
Ầm vang nhịp trống, hiệu cờ
Chia làm bốn cánh càn vô Long thành
”Luỹ đồn trống rỗng vắng tanh
Quân Tây sơn chẳng động manh một bề”
Khề khà Sĩ Nghị hả hê
Bồn chồn Chiêu Thống rề rề nỗi lo
Một bên phè phỡn say no
1780- Một bên ngồi đứng co ro chực chờ
* **
Quân Nam thuỷ bộ trương cờ
Lòng sôi hừng hực cõi bờ loé xa
Thuỷ binh- Đô đốc Tuyết và
Phó Đô Văn Lộc vòng qua Vị Hoàng
" Quân lương kiểm nhận sẵn sàng
Theo từng quân số đã ban theo vùng
Quân trang, quân dụng tập trung
Kiểm tra binh khí sở trường theo khâu
Xong cho chuyển đến tuyến đầu
1790- Giao cho tướng soái tận nơi lập đồn
Nỗi lòng quân tướng keo sơn
Nỗi lòng chiến trận rập rờn ánh sao”
Bộ binh dòng sóng sôi trào
"Ngày đêm hồ hởi cờ đào tiến ra
Tính hơn mười vạn trẻ già
Giáo gươm lương thực một ba liên hành
Đường lùi sau bước chân nhanh
Bánh đa, bánh tét sẵn dành thức ăn
Tâm can rộn nhịp cánh bằng
1800- Từ Tam điệp tới Chi lăng phục chờ!”
Quân cơ bày sẵn trận đồ:
”Đúng ba mươi tết động cờ khởi binh
mùng năm tết vào Thăng long
mùng bảy tết – lễ khao quân một ngày”
Lời Vua rõ cả như bày:
”quân ta năm đạo việc ai nấy làm,
theo ta, Văn Sở, Văn Lân
tiên phuông cửa chính Nam thành Thăng long
dẹt đường đại bác iểm công
1810- Ngọc hồi thất thủ phá xong tuyến này!”
Quân tình lấp lánh sao lay
Pháo giao thừa nổ rưng ngày chiến công
* **
Quang Trung đứng trước bệ rồng
Bốn bên tướng sĩ rộn lòng tin vui
Cùng đường Nghi Đống ngậm ngùi
Vòng dây oan nghiệp ngoẹo người hám tanh
Vắt giò lên cổ chuồn nhanh
Mảo quan ấn kiếm Nghị đành ném, dong
Sông thây nghẽn đỏ kín dòng
1820- Ba mươi vạn xác đếm còn nửa muôn
Đúng như kế sách Người mong
Ngày mồng bảy tết khao quân trong ngoài
Áo bào khói nặng đen vai
Tượng binh, mã chiến vòng ngoài hí reo
Đường xuân người rạng bước đào
Cỏ cây xanh sửng hồ ao lặng lờ
Dân ngoài như đứng trong mơ
Người trong như đứng dựa bờ sóng say
***
Vài trăm năm lại một ngày
1830- Bao nhiêu năm lại đất này bão giông
Cũng là cái nghiệp , cái thân
Đoạn trường khúc hát vi thanh lại chờ
Đang nhìn thực tưởng như mơ
Nghe âm nhạc tưởng lời thơ chập chùng
Dòng người được mấy anh hùng
Dòng sông được mấy cánh rừng soi theo
Đâu ai vững mãi tay chèo
Đâu ai dính mãi sơn keo đời mình
* **
Vòm trời sẻ lặng màu binh
1840- Nhà vua dò bước dân tình chiêu an
Triệu mời văn võ bá quan
Họp bàn củng cố Bắc Nam hoàng triều
Khuyến nông pháp lệnh đê điều
Đăng quang lời hịch bao nhiêu rạch ròi
Từng điều khoản rọi khắp nơi
Quân binh một số về đời nông dân
Sứ thần sang nghị hoà” Thanh”
Xin triều cống để cầu lành dựng xây
Trăm công nghìn việc chất đầy
1850- Lòng vua lắm lúc vơi đầy kỉ cương
Quan trường thời chiến một phương
Thời bình sôi sục chính trường lợi danh
Gờm nhau hai chữ công thần
Chia bè lập phái giật giành quyền uy
Hậu cung hai vách xầm xì
Nội cung hai cánh rầm rì ngay gian
Nhà vua vén lại tấm màn
Nhìn thời đao kiếm bàng hoàng tuổi xanh
”Một thời lướt dưới bóng anh
1860- ”Cây đao thơm nức hương quỳnh thiêng liêng
”Trận nào rúng động bao miền
”Một đêm ba vạn qui tiên quân triều
”Cha con Phúc Hiệp hồn xiêu
”Cha tự vẩn, con bương liều tẩu dong…”
”Trận nào náo động Sài côn
”Thị nghè nghẽn máu Vân đồn nghẹt thây
”Hai tàu chiến lớn bọn Tây
”Cháy vùi sâu dưới bóng mây một bề
”Hai ngài vương Nguyễn hôn mê
1870- ”Quân Tây sơn bắt đưa về trảm ngay”
”Mệnh đời Nguyễn Ánh còn dày
”Vượt vòng số phận cao bay cuối trời
”Từng ngày làm kiếp bèo trôi
”Lênh đênh Xiêm quốc cầu người giúp quân
”Xiêm la nhận lễ cầu thân
”Thuỷ binh, ba vạn rần rần lướt sang
”Thăm dò đầu khúc Tiền giang
”Dàn binh lập trận họp bàn tiến công
”Leo đeo một số tàn quân
1880- ”Mượn câu ‘giúp chúa’ gọi dân hùa lòng
”Giáp Thìn mù mịt cuối đông
”Rạch Gầm chồng chất bềnh bồng thây Xiêm
‘Chiêu Sương’ lết níu ‘Chiêu Tăng’
”Cùng ông ‘Chủng’ném áo quần bơi suông
”Về Xiêm còn mấy thân truồng
”Vua nhìn binh tướng như tuồng hát rong ”
* **
Quang Trung lòng bỗng xa xăm:
”Nhớ hai mươi tuổi cùng anh mưu đồ
Dựng bài Nguyễn Nhạc sa cơ
1890- Trói thân trong cũi khiêng vô Qui thành
Giao quan Tuần phủ lãnh phần
Bất ngờ đánh bật hai đường ngoài trong
Thất thần quân tướng tẩu dong
Mở màn cơ nghiệp Tây sơn thịnh cường
* **
Lòng Người lại những tơ vương
”Nỗi lòng thầy Hiến chặng đường sử kinh
Năm năm trằn nặng thâm tình
Thêm năm năm nữa nhọc vinh đời Thầy
Cũng vì hai chữ trung ngay
1900- Cũng vì cái nghĩa ơn dày chúa Trong
Cũng vì cả một nỗi mong
Muốn cho xuôi thuận cánh buồm an dân
Mới ra cái nghiệp tâm thần
Phút ra đi vẫn lầm thầm tiếng trung”
* **
Lòng Người lại thoáng ngập ngừng
”Nhớ xưa cùng Nhậm trong rừng luyện binh
Hai bên ngang ngửa trí hùng
Binh thư sách lược kiếm cung vẹn toàn
Chỉ vì một chút hoang mang
1910- Chỉ vì một nỗi rối trong bời ngoài
Anh hùng vướng nghiệp trần ai
Nữ nhi rót lệ dặm dài tình thâm
Nên đành đập hạt tơ hồng
Quẳng xa gánh hoạ luân trầm ngày sau”
* **
Quay nhìn cô cháu lòng đau
”Thọ Hương vén lệ ôm sầu oán cha
Hai bình cắm một nhành hoa
Hoa chưa phai sắc bình đà vở toang
Xác xao một nhúm hương tàn
1920- Mong manh một mảnh hồng nhan nghiệp tình
Ngán ngao thay giấc phù sinh
Xót xa thay phận lục bình đời sông
Ai se chi sợi tơ hồng
Để cho ai xé chữ đồng làm đôi”
* **
Nhìn vào máu thịt liền nhau
”Nghe tin Vương Lữ tìm màu tâm linh
Sáng chiều ngồi lặng sân đình
Buông xuôi vào cõi u minh mơ hồ
Quanh Vương tất cả ơ thờ
1930- Bốn bề vạn vật một tờ rỗng không
Việc triều giao hết vua anh
Lịm dần trong cõi tâm thành ra đi”
* **
Lòng Vua từng nỗi vân vi
Lăn tăn bao tiếng xầm xì hậu cung
Hai phương chí cả lại hừng
Giục Người xếp lại sau lưng tơ tình
Quyết lòng một Đấng anh minh
An dân lạc quốc lập trình kinh bang
Cận kề ái hậu Ngọc Hân
1940- Cùng Trung thư Kỉ tính phần hai phương:
”Mặt ngoài lưỡng Quảng: Tây, Đông
xưa là thuộc đất Lạc Hồng vua Nam
nay ta viết chiếu gửi sang
nhắc vua Thanh xét giao bang giới bờ
thuận buồm xuôi gió thì nhờ
bằng không tính chuyện quân cơ sau này…;
phương Nam chờ chuyển heo may
thuỷ binh luyện tập đêm ngày đừng lơ!
bao giờ xong việc cõi bờ
1950- chí ta mới được thoả mơ lòng này!”
Ngọc Hân nhìn Huệ tình say
Tấm lòng nhi nữ ngất ngây anh hùng
Khi ngự triều lúc hậu cung
Hai hình bóng ấy sánh từng bước chân
Cạnh ông Văn Kỉ hiền thần
Có ông Văn Dũng , vợ chồng Diệu Xuân…
Tâm đồng quyết một chữ trung
Phò vua giúp nước ngóng mừng thái an
***
Chương 8
Nhắc qua Nguyễn Ánh phương Nam
1960- Từ sau khủng khiếp Rạch Gầm thây Xiêm
Nổi trôi cùng đám quân tàn
Chiêu binh mãi mã gian nan trăm bề
Nghiệp đời rối rắm bước quê
Thương em, xót mẹ lòng tê tái lòng
Cơ trời nghiêng xuống nỗi mong
Dân tình khơi dậy ân Hoàng chúa xưa
May sao thời vụ được mùa
Đóng thuyền mua súng săm sua đợi ngày
Trời xui gió dữ hướng Tây
1970- ”Anh em Nhạc- Huệ xáo cày tình thâm”
Nghe tin vương Nguyễn mừng thầm
Vội mời các tướng họp bàn việc quân
Ánh rằng:” Ta suốt bao năm
Bôn ba sông nước ăn nằm gió sương
Nay trời cho lại nghiệp Vương
Khiến anh em Nhạc ngược đường binh đao
Lòng dân cũng lắm nôn nao
Liệu xem kế sách kế nào là hay?”
Một trong mười tướng ứng ngay,
1980- ”Hạ thần- Võ Tánh xin bày kế quân:
- Lữ vương tâm trạng bất thần!
Dùng ly gián kế ắt thành công thôi!”
Nói xong lấy bút ghi lời
Đọc qua vương Ánh gật đầu cười to!
Đúng y như Tánh liệu dò
Lữ vương trúng kế nghi ngờ Văn Tham
Túng đường Tham mở thành nam
Trá hàng cứu lính, ngửa than lên rằng:
”- nếu trời sinh Huệ là anh
1990- thì Tham đâu có thác oan thế này!”
Cơ trời càng chuyển thế xoay
Vân Đồn Gia Định từng ngày tiến ra
Cửa thành Bình Thuận nhạt nhoà
Quân binh Nguyễn Lữ bụi loà chân mây
Đang vui vương Nguyễn chau mày
Quay nhìn Võ Tánh- nhớ ngày năm xưa:
”anh hắn - ta giết vì ngờ,
mà lòng giúp chúa hắn lờ tình riêng!”
”ta còn cô út chờ duyên
2000- nhân đây tác hợp thuyền quyên anh hùng”
Truyền người sang sửa gia cung
Định ngày hôn lễ chào mừng chiến công
Ngọc Du -Quận chúa tiên dung
Mười năm lưu lạc mà trong như ngần
Tuổi nàng đang chín sắc xuân
Tình nàng vừa chớm cánh hồng chiêm bao
So vai cùng khách anh hào
Tấm lòng nhi nữ dạt dào phấn hương
Đôi môi ướt mọng ánh hường
2010- Đôi chân gót đỏ dặm trường bước xanh
Đôi tay nà nuột như măng
Sáng trong đôi mắt long lanh giọt ngời
***
Sau đêm hợp cẩn bồi hồi
Chàng trai Võ Tánh ngồi soi đời mình
”Nhìn ra quê mẹ non xanh
Cửa đầm Thị nại sóng gầm gió xô
Theo cha từ thủa bé thơ
Khai hoang lập ấp dựng cờ phương Nam
Lớn lên trong sắc nhà quan
2020- Sân Trình cửa Khổng mười năm dùi mài
Đồng thân lắm kẻ hiền tài
Tùng Châu, Quang Định, Duyệt, Hoài Đức..đương
Cùng về một dạ phò Vương
Cùng đem trí dũng sở trường kinh luân
Tùng Châu là bậc trí nhân
Gốc người ở phủ Qui Nhơn- nho nòi
Tài Lê Văn Duyệt đem soi
Sánh như Từ Thứ một thời nước Ngô
Quang Định, Hoài Đức đâu vừa
2030- Hai tay văn võ nào thua Tiêu*, Phàn*
Lại thêm các vị cựu thần
Nguyễn Nghi, Huỳnh Đức, Văn Thành, Văn Trương…
Thầm vui Võ Tánh nhìn quanh
Sóng nồm gió vỗ ì ầm bên tai
Lao xao biển rộng bờ dài
Quân cờ khua động con bài nhấp nhô
Lòng người còn lắm mơ hồ
Lòng trời còn lắm mịt mờ khói mây
***
Qui nhơn vua Nhạc hao gầy
2040- Tình nhà việc nước xéo dày tâm can
Từ khi Lữ bỏ phương Nam
Nỗi đau luỵ rượu nỗi căm luỵ đàn
Cung tần mỹ nữ giăng hàng
Việc binh phó mặc quan gian tung hoành
Lòng trời xoay chuyển vòng quanh
Mây đen che khuất bóng thành Qui nhơn
Phú yên quân Nguyễn chờn vờn
Cửa Đông hải khấu rập rờn vào ra
*Tiêu Hà,*Phàn Khoái Hai danh tướng thời Tiền Hán ( Lưu Bang)
Dân tình đói khổ kêu la
2050- Người hiền tản lạc tài ba tẩu đào
Cung đình ngày một xanh xao
Núi sông ngày một hanh hao úa vàng
”Một thời cờ trống hiên ngang
Một thời Thiên đế xuống trần phong Vua
Tan trong chớp mắt như đùa
Rừng Tây sơn thượng cây xưa khô dần
Xót xa cái nghiệp trong thân
Nhựa khô màu héo quả nhân luân hồi
Trách chi đời bạc như vôi
2060- Thầm thương ngắn ngủi cuộc người vinh hoa”
* **
Phú xuân mắt Huệ chan hoà
Nhìn theo sông núi nhìn qua đời mình
Trước ngày Nam tiến động binh
Lòng Vua trằn trọc nội tình hoàng cung
Truyền vời Thời Nhiệm về cùng
Rà xem kế sách chấn hưng trong ngoài
"- việc thay Quốc tự giao ai?
ông xem đảm trách việc này được không?
dạy cho dân học chữ nôm
2070- lập Sùng Chính Viện cảo thơm giữ gìn
đối lưu Hán tự nôm văn
tập cho sĩ tử quen dần chữ nam
- hai là dẹp loạn Đàng trong
định ngày, cử tướng, đang cần bao binh?
- ba là việc Sứ sang Thanh
ông Vũ Văn Dũng chương trình tới đâu ?
bao nhiêu công việc nhập nhầu
cùng ta bàn kỉ để mau tiến hành!”
Đăm chiêu một lúc, Nhiệm rằng:
2080- "- việc thay quốc tự mời thầy La Sơn
thánh hiền làu thuộc nghĩa nhân
thiên văn địa lý thông cầm trong tay
nhìn xa thấy rộng ai tày
kính xin bệ hạ thỉnh ngay thầy về!”
Một ngày bàn bạc hả hê
Về cung lòng Huệ tràn trề nỗi mong
Ngọc Hân tâm trạng phập phồng
Mừng mừng sợ sợ trí lung từng giờ
Mừng là thống nhất sơn hà
2090- Sợ là nhi nữ phòng hoa một mình
Nhưng vì nghiệp cả cũng đành
Xui chồng sớm quyết chớp nhanh thế cờ
Cùng thầy Nguyễn Thiếp đắn đo
"Mở trang sách thánh một tờ trắng không”
Suốt đêm ngồi lặng thư phòng
Ngọc Hân- Nguyễn Huệ gộp lòng ngẫm soi
Lòng thành nàng cố khẩn cầu
La Sơn Phu Tử có lời trong thơ:
"Già kham sao nổi hai vua!
2100- Cuộc cờ phú quí ngựa đùa pháo bay
Trời nam Sơn giống mau gầy!
Phục Ba cột Bắc một cây vẫn còn!
Một sừng thú lạ Tây dương
Mà người chột mắt như dường chưa ra
Bao giờ Nhật Nguyệt quang hoa
Âu ca rạng rỡ giống nhà một khi”
Lạy chào, Nguyễn Thiếp xin đi
Bôn ba về núi vân vi bốn mùa
Bỗng đùng thị nữ vào thưa:
2110- ”Hoàng thượng ngã bệnh hôn mê lâm sàng”
Ngọc Hân chưa hết bàng hoàng
Ba chân bốn cẳng bương ngang sảnh ngoài
Nhìn chồng nhắm mắt xuôi tay
Một dòng máu đỏ cưá dài qua môi
Thái y kẻ đứng người ngồi
Tứ chi nàng cứ rụng rời từng khoang
Quì bên nuốt lệ hai hàng
Nỗi đau nàng thấu tâm can đất trời
Bỗng đâu động đậy mắt Người
2120- Long lanh ánh ướt ngậm ngùi tràn ra
Đôi môi khẻ mở như là
Nói lời chi đó nhưng mà lặng thinh
Dường như máy động lời tình
Từ trong sâu thẳm tâm linh vọng về
Từ trong dày đặc hoang mê
Đơn cô nay lại trả về cô đơn
Cả triều quan tướng dập dồn
Chánh cung Hoàng hậu bồn chồn vào ra
Đắc Tuyên méo mó khóc oà
2130- Trung Thư Văn Kỉ mắt nhoà giọt châu
Thị Xuân, Quang Diệu ôm đầu
Văn Lân, Văn Tuyết đứng ngồi không yên
Văn Long, Đình Tú cố ghiềm
Hai môi tứa máu lặng im cúi đầu
Bỗng nghe tiếng gọi:” Quân đâu!
Trói tên Tuyên lại! chặt đầu cho ta!”
Bao nhiêu đôi mắt chói loà
Giật mình không biết chánh tà ra sao ?
Môi Người mấp máy thì thào
2140- Khép dần ánh mắt đi vào thiên thu
Không gian sầm xuống tối mù
Ngọc Hân hồn phách âm u cõi người
Bắc Hà Văn Sở rụng rời
Cùng Ngô Thì Nhiệm như dời chân bay
Đến kinh đã quá ba ngày
Nhìn màu tang chế trải dày hoàng cung
”Nghe như sóng dậy muôn trùng
Nghe đâu tiếng vọng chín từng mây cao
Nghe đâu trong nỗi nghẹn ngào
2150- Trăm con dao lửa róc cào máu tươi”
Sau ngày tang lễ rũ rười
Chánh cung Hoàng hậu mặt tươi hoá vàng
Nói cười nhảy múa miên man
Tóc tai bù rối dung nhan phạc phờ
Một đêm bà thét trong mơ:
”giết quân bội bạc! ờ ờ! rồi sao?
ha ha! Hắn chết hồi nào?”
Thân bà nằm ngoẻo máu trào khoé môi
Cung tần hoảng hốt kêu trời
2160- Thái y, quan tướng đến nơi tận tường
Mỗi người một nỗi riêng vương
Mỗi trong ánh mắt vô thường gởi theo
Dường như nước mắt đã nghèo
Tiếng than khóc cứ vắng teo bên bà
Gia hầu túm tụm thở ra
Người ruột thịt đứng xuýt xoa vò đầu
Đông cung Quang Toản lầu bầu:
"Mẫu hậu ơi! Mẹ lên trời nữa sao?”
Không gian như chực sôi trào
2170- Khí âm ngùn ngụt ùa vào nội cung
* **
"Nhìn theo cái điểm vô cùng
Chân mây mặt nước ung dung liền màu
Một vùng ánh sáng soi theo
Một vùng bóng tối nhò nhàu giới biên
Vòng theo qui luật khôn kiền
Tạo ra sinh diệt tỉnh điên dòng đời
Đêm qua một ánh sao rơi
Sáng nay vắng mất một người bên ta
Nhìn theo tiếng trẻ oa oa
2180- Thấy trời xưa ánh sao ngà lung linh
Dọc qua một gánh hành trình
Xuyên vào kí ức tâm linh nét ngời
Đò người neo bến chơi vơi
Đường biên nhật nguyệt phán lời cách chia
Miên man một cõi đi về
Giật mình thấy đứng bên lề áo quan ”
Triều đình lần nữa lễ tang
Quần thần lần nữa hoang mang nỗi ngờ
Soi nhìn Thái Tử còn thơ
2190- Đắc Tuyên quyết nắm quân cờ trong tay
Liền vời Xuân, Sở tỏ bày
Chuyện xưa khơi nhớ, chuyện nay đem bàn
Và ngày Vua Nhỏ đăng quang
Đắc Tuyên- Cậu ruột Vua, làm Thái sư
* **
Hoàng triều Cảnh Thịnh âm u
Nỗi lòng binh tướng mây mù bủa giăng
Thái sư Tuyên mở cánh bằng
Săm sua mũ áo lăng xăng uy quyền
Chọn người tâm phúc hữu duyên
2200- Mưu mô lung lạc tôi hiền trong cung
Mũi tên nhắm thẳng Ngọc Hân
Nhắm vào Văn Kỉ- Trung quân, đợi giờ
Bày vua dịch chuyển quân cờ
Đưa Lân, Tuyết, Tú.. đến bờ ải xa
Đưa Dũng ra trấn Bắc Hà
Thay Ngô Văn Sơ- triều ca gọi về
Một vòng vây cánh xum xuê
Một phen mặt mũi hả hê quan trường
Phú Xuân trắng lạnh mù sương
2210- Long môn hiu hắt Triều đường xanh xao
Phương Nam quân Nguyễn sôi trào
Qui Nhơn Nguyễn Nhạc chao dao binh quyền
Mười năm tích tắc cơ duyên
Xong chưa một cuộc bơi thuyền sông mê?
* **
Ngọc Hân, mày mặt ủ ê
Lối ra mờ mịt ngỏ về lạnh tanh
Phòng trăng lửng thửng buông mành
Võ vàng chăn gối hao hanh xuân thì
Giọt cay rát nặng bờ mi
2220- Nỗi trăn trở cứ ôm ghì giấc sâu
”Hồn đang chìm giữa sông sầu
Mà mơ sánh bước lên chầu cùng ai
Vội vàng ghì chặt đôi vai
Than ôi! Mờ mịt hình hài khói sương
Hồn mơ thưởng ngoạn ngự vườn
Chân chưa chạm đất trầm hương lạnh tàn
Hồn mơ tận mặt dung nhan
Bỗng âm u cảnh kinh hoàng máu me
Kiếp này duyên đứt dây se
2230- Ước xin kiếp khác gốc hoè sớm trưa
Ước như Thang Võ vua xưa
Đức sâu tuổi hạc có thừa trăm năm
Cờ đào áo vải thành tâm
Giúp dân dựng nước cát lầm xiết bao!
Ước vua Nghiêu Thuấn đức giàu
Mà Người lượng cả ơn sâu kín dày
Sao đành tuổi hạc sớm bay?
Hoá công ôi! Biết sự này vì đâu?
Nếu cho chuộc được số người
2240- Thì thân này nguyện ngậm cười cùng ai
Để chi mòn mỏi canh dài
Ôm con thơ cõi trần ai khuê phòng
Còn gì đâu để mà mong
Muốn theo để vẹn chữ tòng cho xuôi
Nhìn con, núm ruột ngậm ngùi
Nên đành nấn ná thân người ngu ngơ
Hồn như đang đứng bên bờ
Cùng Người ngự cảnh sông hồ Bồng Lai
Qua Sông Ngân dạo Thiên Thai
2250- Vào cung điện quế, ngắm đài nguy nga
Bỗng đâu xao xác tiếng gà
Bàng hoàng chăn gối nhạt nhòa chiêm bao
”Mơ màng thêm nỗi khát khao
”Ngọc kinh chốn ấy ngày nào tới nơi?”
Lòng nghe bao nỗi bồi hồi
Nguyện đồng sinh trọn sao người vội thay
”Xưa sao sớm hỏi khuya bày
Nặng lòng vàng đá, cạn lời tóc tơ!”
Giờ sao lặng lẻ thờ ơ
2260- Tình khô ái héo bơ phờ ai hay?
”Xưa sao gang tấc gần chầu
Trước sân phong nguyệt trên lầu sinh ca!”
Giờ sao hai cõi cách xa
Câu hàn huyên biết hỏi qua nơi nào?
Nửa cung gãy phím đàn trao
Con thơ côi cút má đào bơ vơ!
Quẩn lòng lắm lúc ngẩn ngơ
Nghe con chim Cuốc vọng bờ đau thương
”Não người thay cảnh tiên hương
2270- Dạ thương quanh quất, mắt thường ngóng trông!”
Nhìn buồm xuôi ngược mái Đông
Nước mây vời vợi mênh mông muôn trùng
Nhìn Tây trời đã ráng hồng
Non cao chất ngất có còn rừng sơn?
Nhìn Nam thăm thẳm ruộng đồng
Nhìn về phương Bắc bềnh bồng trắng sương
”Nọ trông trời đất bốn phương
Cõi tiên thăm thẳm biết đường nào đi ?”
Phép gì tới đó một khi
2280- Dâng lên thường vật ngỏ bày lòng trung
”Này gương là của Hán cung
Ơn trên xưa đã soi chung bao ngày!”
Duyên lành đã lẽ xót rày
Vì ai vội rẽ ai hoài ngàn thâu?
”Xin đưa gương ấy về chầu
Ngỏ soi cho tỏ gót đầu trông ơn!”
Tưởng linh sàng đọng dấu nhơn
Nỗi sinh cơ có thấu chăng cho cùng
”Tân quân còn tuổi ấu xung
2290- Tiên vương sao nỡ quên lòng đoái thương?”
Gót con lẫm chẫm mấy hàng
Chông chênh mũ áo bào hoàng trên ngai
”U ơ ra trước gương đài
Tưởng quang cảnh ấy chua cay dường nào!”
Lục viện rũ liễu, úa đào
Xiêm nghê buông thả xác xao ve gầy
Quê hương mòn mỏi tháng ngày
Tủi duyên chốn ở, đắng cay lối về!
Hàng uyên bệ ngọc tái tê
2300- Cất chân tay khó thương hề xiết chi!
”Hang sâu vẳng tiếng thương bi
Kẻ sơ còn thế huống gì người thân!”
Biệt ly bát ngát khúc trần
Mạch sầu ai tát bao lần cho vơi?
”Càng trông càng một xa vời
Tất lòng thảm thiết chín trời biết chăng?”
Tủi lòng mòn mỏi bóng trăng
Gương nga đã bụi ánh Hằng màu trong
”Nhìn gương càng thẹn tấm lòng
2310- Thiên duyên lạnh lẽo, đêm đông biên hà”
Hoa buồn thêm thẹn đời hoa
Hải đường xuân sắc la đà cành sương
”Trông chim càng dễ đoạn trường
Uyên ương chiếc bóng, Phượng Hoàng lẻ đôi!”
Cảnh nương theo cảnh bùi ngùi
Tiệc vui tìm gặp nụ cười nơi đâu ?
”Phút dây bãi bể nương dâu
Cuộc đời là thế nài hầu được sao?”
Nghĩa tình đất rộng trời cao
2320- Nỗi lòng người sống xiết bao đoạn trường”
* **
Mặt trời vấn Mặt trăng vương
Hai bờ hư thực vô thường xác thân
Áo hoa nhàu nhục bụi trần
Hồng nhan bạc phận- Ngọc Hân là nàng
Thái sư xúi lũ hầu gian
Phao tin lan khắp rằng nàng giết Vua
Cung đình sấm chớp gió ùa
Bắc cung Thái Hậu bị đưa vấn lời
Buộc nàng nhận:” bởi thù sâu
2330- Nên dùng thuốc hiếm lén đầu độc Vua!”
Rồi đem nhân chứng khai bừa
Đớn đau nàng lấy bút hoa tường trình
Nội dung bày giữa anh minh:
”Lời Ai Tư Vãn đẫm tình bao chương
Diễn ca suốt khúc đoạn trường
Một trăm sáu tám dòng hương não nùng”
Triều thần ai nấy lòng rưng
Thái sư Tuyên cũng ngập ngừng đành lui
Lời bi tiếng não ngậm ngùi
2340- Diệu- Xuân, Văn Kỉ ngẩn người nhìn nhau
”Ôi thôi! Sự đã lỡ rồi!
Tiên Vương ôi! Một phận đời đớn đau!
Tiền đồ rã rượi gam màu
Lấy ai rường cột chống neo cơ trời
Phương Nam giặc Nguyễn khắp nơi
Vua Anh Nguyễn Nhạc rệu rời nội cung
Phú Xuân còn mấy anh hùng?
Gian quan lộ mặt vịn lưng cửa quyền
Non sông phen nữa đảo điên
2350- Thôi đành cũng gắng cơ duyên Thiên Hoàng!”
Than xong, vuốt lệ hai hàng
Bải triều quan tướng bàng hoàng ngẩn ngơ
Nhìn theo mây khói hửng hờ
Dặm trường quan tái bơ phờ dấu xưa
***
Chương 9
Hung tin đưa tới bất ngờ
Phú Xuân, Vua đã băng hà như mơ
Hoài Sơn một phút sững sờ
Qui Nhơn một phút ngẩn ngơ quanh nàng
"Nhìn ra khuất mấy quan san
2360- Trông lên bàng bạc màu tang trắng trời
Một điều chưa nghĩ đã rơi!
Hai điều đang nghĩ như rời rạc ra?
Ba điều đã nghĩ nhạt nhòa
Thiên Địa Nhân ấy hoá là thế ư?
Đớn đau ai đáp tiếng ừ ?
Nhớ thương ai rọi vẻ tư lự buồn?
Một vòng hoa kết cánh sương
Một làn hương khiết dòng Kôn lũ tràn
Ì ào con sóng lầm than
2370- Triền miên vồ đập trăng ngàn biển sâu
Nơi đây còn lại một màu
Long lanh kí ức buổi đầu trinh nguyên
Gởi theo cánh gió xuôi triền
Phú Xuân ơi! chốn Cửu Tuyền có hay?”
Lê Lương nhíu trán cau mày:
"Hoá ra cũng đã có ngày này sao?
tưởng đâu thắm mãi cờ đào
để hồn Sơn nữ ta vào mộng du!”
Mười lăm năm đã có dư
2380- Mỗi người một nỗi ưu tư riêng mình
"Lê Lương thầm lặng đinh ninh
Hoài Sơn thổn thức tâm tình nhìn con
Cùng nhau nghĩa vợ tình chồng
Cùng nhau chôn kín lỗi lầm thẳm sâu
Bỗng dưng trời đỗ mưa ngâu
Cành lan huệ lại u sầu dáng xưa
Lê Lương thấy đất như vừa
Nứt ra một lối vặn vừa người đi!”
Lương nghe đâu đó thầm thì
2390- Tiếng ai mà lại vân vi từng lời
"Này này anh Lê Lương ơi!
Vừa con vừa rễ chuyện đời khó tin!
Bỗng dưng nhận được hậu tình
Nhập gia Hoàng tộc linh đình cưới xin
Vừa tròn tám tháng đã sinh
Nay mười lăm tuổi giống anh tí nào?”
"Lòng Lương lắm lúc tự hào
Nhìn thằng An lớn càng cao nỗi thầm
Mặt vuông, mắt sáng, tóc xoăn
2400- Tay dài, vai rộng, da ngâm, dáng hùng
Còn con Thái nhỏ sáng trưng
Mới mười ba tuổi như chừng tròn trăng
Nghề anh vẫn cứ nhập nhằng
Đền đài, thuỷ mạc lăng xăng sớm chiều
Cũng lần nâng chén tao tiêu
Nhìn trang thế sự nói điều bâng quơ”
"Còn nàng từ thuở đến giờ
Chăm hoa bón quả thêu thùa dạy con
Ngày rằm mùng một lên non
2410- Thắp hương lòng nguyện cầu tròn chí ai
Từng đêm mười mấy năm dài
Chữ tình chữ nghĩa chia hai tâm thành”
Bỗng đùng một bức tin nhanh
"Hoài Sơn nghe vỡ tan tành không gian
Sờ môi thấy mặn hai hàng
Nhìn thân thấy đứng trên giàn hoả thiêu
Chồng con một góc liêu xiêu
Cửa nhà một cảnh đìu hiu tận cùng
Bốn bề mây nước mông lung
2420- Dọc bờ lau lách chập chùng bước đêm
Nàng mơ thấy đứng bên thềm
Vòng tay ai đã run mềm bờ vai”
* **
Nghe em Huệ- đã an bài
Xót xa vua Nhạc ai hoài nguồn cơn
Lòng như tan hết giận hờn
Trí như được mách:”Gia ơn cho đời
Thân rày cạn sức mòn hơi
Hai mươi năm! đã rệu rời tâm can!
Nhám rô bụi phấn ngai vàng
2430- Con trai Nguyễn Bảo không màng bon chen
Lòng quan tướng lại ươn hèn
Phú Yên, Qui Phủ giặc men sát nhà
Vua truyền viết chiếu chuyển ra
Nhường ngôi cho cháu thay cha nghiệp trời!”
Rồi vời quan tướng vào chầu
"Lê Trung, Lê Chất,… âu sầu nhìn vua?
Thành Hoàng Đế bỗng như vừa
Trải qua một cuộc mây mưa rã rời
Cung đình mệt mỏi im hơi
2440- Lơ mơ ánh mắt buông lơi bơ phờ!”
Bàng hoàng Vua thấy trong mơ:
" Rõ ràng là Huệ mới vừa đâu đây?
Dắt theo ái nữ của Thầy
Trên tay ôm một quả cây Sơn rừng
Nhìn chăm ánh mắt rưng rưng
Ngỏ lời oán trách chưa từng nói ra
bương theo Vua muốn khóc oà
đôi chân vấp ngã giấc ngà tan theo”
Mơ màng hư thực chiêm bao
2450- Bên tai có tiếng thì thào báo tin:
"Rằng nhà quan Kiến trúc Lương
Bà Hoài Sơn đã lên đường theo cha!
Người bà ngào ngạt cánh hoa
Con bà nói :’’ Mẹ đi xa. Đợi về!’’
Bàng hoàng Vua Nhạc nói mê
Rồi truyền binh lính, kiệu xe ra ngoài
* **
Lễ tang sau đó ba ngày
Xác nàng được tẩm hoa đài mật hương
Đúng theo nghi lễ triều đường
2460- "Nội tình lệnh khẩn, thân vương miễn bàn!”
Mộ phần ẩn tại gia trang
Giao quan Hoài với con nàng trông nom
Lòng Vua như thảnh thơi hơn
" Về cung ngửa mặt cười giòn dưới trăng
Quẳng cha cái nghiệp nhọc nhằn…”
Phú Xuân tin Nhạc vừa băng hôm rồi
Thành Hoàng Đế lại mưa rơi
Nguồn Tây Sơn Thượng tiễn lời thứ ba
Người Qui Nhơn bóng nhập nhoà
2470- Trời Qui Nhơn những cánh hoa rụng dần
Cung đình tang lễ cuối xuân
Văn quan võ tướng lạnh lùng ngó nhau
Thọ Hương công chúa nguyện cầu
Áo nâu sồng lại trắng màu áo quan
Cổng chùa Thập Tháp giăng vàng
Rước cha bài vị linh sàng nơi đây
Thọ Hương nhớ lại những ngày
" Nhớ năm mười bốn thơ ngây tuổi hồng
Nhớ chiều hôn lễ cuối đông
2480- Cùng Dương Thế tử anh chồng ngô nghê
Người anh đầy ắp vụng về
Tình anh lành lạnh tái tê thế nào?
Đêm về đứng ngắm trăng sao
Ngày ôm đống sách ra vào ngẩn ngơ
Bỗng nhiên biến mất bất ngờ
Bỏ sau lưng nỗi mong chờ mòn xanh
Rồi đùng tin đến chẳng lành:
- Rằng Người vừa đã đoạn đành thiên thâu!”
"Nhớ lần năm ấy cuối thu
2490- cùng trang tuấn kiệt mày râu động phòng
là Vũ Văn Nhậm tướng quân
Tuần trăng giục bước chinh nhân quan hà
Hai năm mỏi liễu mòn hoa
Rồi nhà xáo thịt nhồi da đoạn trường
Còn gì đâu để mà vương
Nên thân xuống tóc nhập đường thiền môn
Thầm mong giải thoát linh hồn
Khỏi vòng tục luỵ chen bon hồng trần
Vọng về từ cõi xa xăm
2500- Người anh hùng đã lỗi lầm chết oan
Hồn vương theo ánh lệ vàng
Thiên thu ôm tiếng oanh than cuối trời
***
Chương10
Ầm ào đạn pháo khắp nơi
Thành Hoàng Đế khói lửa người lao xao
Cửa Đông Thị Nại pháo vào
Cửa Tây cung giáo rít gào suốt đêm
Nhìn con hai đứa sau thềm
Quanh bên mộ mẹ như mềm nhũn ra
Suốt ngày ngồi đứng ươm hoa
2510- Thâu đêm ôm sợi khói ngà hương trăng
Nỗi đau nỗi nhớ trọc trằn
Nỗi lo thời thế nỗi căm giận mình
Bao làn sóng rít quanh tim
Lê Lương cúi mặt lặng tìm dấu xa
Theo lời nghĩa phụ nói ra:
"Tổ tiên con vốn họ nhà Nguyễn Vương
sau vì cuộc chiến quan trường
cả nhà bị giết triệt đường nối tông
ta vì đền mối thâm ơn
2520- nên trời sai nhận làm con trong nhà!…”
Lòng Lương lại lắm nhạt nhoà
Mắt cay cay rát trí hoa hoa buồn
"Thì ra vốn gốc thân vương?
Ông trời chưa nỡ tuyệt đường ta đi
Biết đâu thời thế gặp thì
Thân ta lại được lễ nghi triệu mời!…”
Nghĩ rồi Lương ngước lên trời
Qùi bên mộ vợ viết lời từ ly:
"Trường tình khóc phận nữ nhi
2530- mày râu tấu khúc ai bi thay nàng
nơi đây đã khắc đá vàng
Tấm bia gởi lại giọt vàng trăng gieo!”
* **
Bên tai vọng tiếng hiểm nghèo
Trong lòng tiếng giục cheo leo gió ngàn
Cùng con hành lí vội vàng
Nửa đêm đùm túm xuôi đàng hướng đông
Qua vài mươi dặm nương đồng
Leo lên sườn núi chập chùng khói sương
Hai bên cây đá uốn lườn
2540- Trải dày hoa lá một vườn thiên nhiên
Vào sâu thấy một cửa thiền
Vách lưng đá dựng áp nghiêng tựa thành
Bệ hương –mảng đá sáng xanh
Chủ nhân đang bận tâm thành phương xa
Bình minh vén ánh trăng tà
Cha con ngồi giữa Núi Bà tìm phương:
"- Nơi này rừng núi chon von
quan quân chắc chẳng ngó dòm tới chi!
- Ta chờ thời cuộc đổi thay
2550- trái rừng rau muối nơi này lánh thân!
- Hai con lắng dịu tinh thần
cùng chia xẻ cuộc phong trần với nhau!
- Nếu mà quân Nguyễn đến nơi
chắc rằng máu chảy đầu rơi đẫm đường
- Nhà ta nhiều nỗi oan khương
tránh sao khỏi khúc đoạn trường biệt ly!”
* **
Nỗi lo đã đến bên nghì
Quân binh nhà Nguyễn lầm lì súng gươm
Cổng thành Hoàng Đế nập nườm
2560- Đá tên hoả hổ rít ầm bùng rơi
Trong ngoài mùi máu tanh hôi
Xác người thối rữa bọ giòi ngo ngoe
Lại thêm oi bức mùa hè
Đất trời Qui phủ bết be hơi nồng
Dân làng chui rúc ven sông
Đói cơm khát bệnh thây chồng lên nhau
" Chiến tranh ơi! Đất nhục màu?
Mầm xanh ơi! Đợi cành sau đâm chồi!”
Và ngày kia đã đến nơi
2570- Cổng thành bị phá dẹt rời hai bên
Quân Tây Sơn ngược đường lên
Dòng sông Kôn nước tủi hờn ngoái theo
"Soi bao nhiêu phận đời nghèo
Chở bao nhiêu cảnh bọt bèo trên sông
Trôi bao nhiêu cảnh đợi chồng
Xoá bao nhiêu chữ tơ đồng trêu ngươi”
Tàn quân xao xác bóng người
Rừng Tây Sơn Thượng ngậm ngùi chờ tin
* **
Phập phồng tiếng vọng Phú Xuân
2580- Triều đình Cảnh Thịnh ngập ngừng Đắc Tuyên
Thái sư cố gộp binh quyền
Để xoay thời thế làm nghiêng cơ trời
Bày ra nhiều kiểu ăn chơi
Xui Vua Cảnh Thịnh xa rời việc quân
Rắp tâm hãm hại trung thần
Đày Trần Văn Kỉ vào rừng trông voi
Thay vua viết chiếu triệu vời
Ngầm mưu giết Dũng, Lân nơi Bắc thành
Bó chân Văn Sở, Thị Xuân
2590- Dựt dây Quang Diệu phân vân vòng ngoài
Một mình ôm lấy hai ngai
Đắc Tuyên lật ngược con bài quân cơ
Thị Xuân lòng rối như vò
Nhìn chồng- Quang Diệu đắn đo tỏ lời:
"Tình hình nguy cấp lắm rồi
Nếu ta không quyết ắt trời không dung
Dứt dây thì sợ động rừng
Khó ông Văn Sở đã hừng chí gian
Kèm theo một lũ tham quan
2600- Giăng dây bủa lưới rình rang cung đình
Ta cần động tĩnh cho nhanh
Nhân Tuyên sai Sở Bắc thành âm mưu
Mật thư chuyển trước đánh liều:
‘giết Ngô Văn Sở! Hồi triều giết Tuyên!’
nếu mà thuận gió xuôi thuyền
có khi mối hoạ cũng yên phần nào!”
Vợ chồng cạn chén âm hao
Ngày đêm cẩn mật đón rào kẻ gian
Để cho kế sách chu toàn
2610- Tướng quân Xuân- Diệu phương Nam trương cờ
Cận thần thân tín ngẩn ngơ
Hoang mang nhìn cảnh bến bờ chuyển rung
* **
Phương Nam lòng Nguyễn tưng bừng
Chiêu hiền rộng cửa đón mừng Đặng Siêu
Người này lắm kế nhiều mưu!
"Lê Trung chết ức Quang Huy bỏ mình!”
Thù nhà Lê Chất hàng binh
Theo chân Nguyễn Ánh liều mình lập công
Thành Hoàng Đế- phủ Qui Nhơn
2620- Đổi thành Bình Định khắc tên sơn màu
Nhìn qua Võ Tánh- Tùng Châu
Nguyễn Vương đắc ý gật đầu lệnh ban:
"hai ông chuẩn bị tinh thần
hiệp quan trấn thủ an dân nơi này!
Tàn dư Nhạc phải thẳng tay
Nhổ cho sạch rễ chớ rày buông lơi!
Dò tìm tông tích từng nơi
Như xưa nó giết hết người nhà ta!”
Tùng Châu nghe thế khóc oà:
2630- Lạy tâu Vương Nguyễn xin qua sự tình:
"mong người suy xét anh minh!
làm như thế hoá hẹp tình khó thay!
ngàn xưa cho tới thời nay
tấm lòng minh chúa vòng tay hải hà
đừng vì một chút lo xa
mà quên hai chữ đó là lòng dân!”
Vương nghe, tâm trạng bần thần
Ngó xuôi ngó ngược ra sân thở dài
"Quay nhìn suốt cuộc trần ai
2640- Ăn bờ, ở bụi, rước ngoài, dày trong
Lách luồn bất chấp nghĩa nhân
Miễn sao giành được giang sơn bao đời
Hoàn hồn ngắm lại cơ ngơi
Lâng lâng tấc dạ bồi hồi tâm can
Trong sâu thức nỗi kinh hoàng
Bờ sinh bến tử bàng hoàng máu me
Lôi Vương đi thả Vương về
Dạy Vương cung cách chỉnh tề quyết tâm
Dạy Vương biết nhắm đúng tầm
2650- Mũi tên vận mệnh phải nhằm mục tiêu
Dạy Vương biết lượng hướng chiều
Lượng lui lượng tiến lượng yêu lượng thù”
Mĩm cười, Ánh xoá ưu tư
Quay nhìn em rễ gật gù ngợi khen:
" ngày mai thống nhất hai miền
Tùng Châu – Võ Tánh một thiên sử vàng!”
* **
Chương 11
Bắc thành, Văn Dũng, Văn Lân
Nhận thư Quang Diệu Thị Xuân nội tình
Tức thời: giết Sở, hồi kinh
2660- Bắt Tuyên Thái Uý chém liền trong đêm
Phanh phui một số tên kèm
Giục vua Cảnh Thịnh giăng đèn chiêu an
Nhưng vua non quá kinh hoàng
Khóc kêu trách mắng ầm vang cung đình
Lòng dân ngao ngán điêu linh
Lòng quân sợ hãi tâm tình hoang mang
Hoàng triều âm khí lạnh tràn
Mỗi quan tướng tựa nấm vàng khói hương
Lờ mờ phép tắc kỉ cương
2670- Một dây oan trái lắm đường rối ren
"Phú Xuân nghìn nghịt mây đen
Còn đâu ánh sáng lắp tên nhắm thù
Còn đây cái cõi âm u
Còn đây cái cảnh tù mù trêu ngươi
Còn trong ánh mắt ngùi ngùi
Rưng trong vàng vỏ nét cười hoàng hôn”
"Mới đây! ngửa đón dập dồn!
Đón hào quang toả rực hồng nước Nam
Đón ngày giặc rã dân an
2680- Đón mùa xuân khúc khải hoàn Thăng long
Đón mời hiền sĩ ngoài trong
Đón ngày mai đất Quảng Đông nối bờ!”
"Còn bao nhiêu việc đang chờ
Bỗng dưng trút xuống bất ngờ chữ tan
Phát ra nghe một tiếng Đoàng
Một vùng trời đất chói chan mảnh hồng
Một vùng tan tác khói bông
Liu riu vào cõi muôn trùng mù tăm
Lan man bao tiếng thì thầm
2690- Lơ mơ bao mớ lỗi lầm lung lay!”
"Giờ đang ngửa mặt hao gầy!
Mà sao chưa thấy một ngày nắng trong
Bầu trời âm ỉ gió giông
Đất long lanh ánh sương hồng cỏ hoang
Mặt người lấm láp mơ màng
Nấp sau vườn chuối vồng lang lén dòm
Đêm về như thấy xa hơn
Ngày sang lại thấy chập chờn giấc khuya
Thêm bao nhiêu ánh đầm đìa
2700- Mong mùa nồm tới bến kia thuyền vào
Hào quang mở cánh ba đào
Khung xưa chờ được lắp vào cửa sanh!”
* **
Trời Qui Nhơn lại tối tăm
Giòng sông Kôn lại sóng gầm lũ bương
Rừng Tây Sơn thượng bão nguồn
Dân thành Bình Định lệ tuôn hai dòng
Cửa thành dựng kín giáo gươm
Hướng Đông Tuyết, Dũng rập rờn thuỷ binh
Hướng Tây, cờ Diệu xuôi chinh
2710- Cù Mông Long, Lộc thập thình trống quân
Ép vào ba mũi giáp công
Mặt thành Bình Định ngửa trông lên trời
Quan quân nhà Nguyễn rã rời
Nhìn kho lương cạn Tùng Châu than thầm:
"thế cùng đành phải xả thân
tấm lòng trung nghĩa há ngần ngại sao
chỉ mong giảm bớt máu đào
xé thân ta làm tấm phao cứu người!”
Than xong Châu ngửa mặt cười
2720- Cầm chai thuốc độc uống tươi một lèo
Cháy lòng Võ Tánh lao theo:
"Tùng Châu ơi! Kiếp bọt bèo đã tan
Hai ta cũng lắm đá vàng
Chờ ta cởi áo từ quan đi cùng!”
Nói xong, Tánh đóng cửa phòng
Tưới dầu châm lửa rực hồng tấm thân
Lửa lên ngùn ngụt mấy tầng
Lập loè rơi tiếng nghĩa nhân quanh thành
Quân binh buông giáo trốn nhanh
2730- Cờ Tây Sơn cắm giữa thành trống không
Diệu nhìn Dũng, Tuyết nhìn Long
Mỗi quan tướng một nỗi lòng riêng tây
Năm xưa cũng chính nơi này
Sắc màu chiến thắng thắm dày niềm tin
Long lanh chứa biết bao tình
Đậm đà hương tết dịu lành nắng xuân
Giờ sao lửa trận bập bừng
Mà lòng quân lại ngập ngừng chiến công
Mà lòng dân lại phập phồng
2740- Mà lòng quan tướng mông lung bến bờ
Diệu nhìn Châu, Tánh- Đống tro!
Tấm lòng trung nghĩa lờ nhờ hư không
Rồi như lòng lại nhủ lòng
Nhắc anh thực hiện chữ ‘Nhân’cuộc đời
Truyền quân tẩm liệm từng người
Tiễn đưa Châu, Tánh về nơi vĩnh hằng
Xong rồi viết hịch an dân
"Mong dời vận khí vượt tầng thinh không
Mong đem một chữ tơ đồng
2750- Biến dây tơ nhỏ thành vòng hào quang
Biết đâu trong ánh sáng vàng
Nương theo hơi thở nhập tràn vào thân
Phát ra âm tiết giai tầng
Lồng vào tiếng nói nghĩa nhân con người
Lồng vào cuộc thế ngược xuôi
Vòng qua định mệnh mà cười rủi may! ”
"Chữ đồng rọi ánh quang huy
Chữ tâm nghe đã xám chì chân mây
Có khi khuất chữ hao gầy
2760- Mà quên đi chữ đổi thay vận hành
Bảy màu đen đỏ vàng xanh…
Thay bằng màu trắng chữ ‘thành’ đủ chưa?”
***
Trời hết nắng lại đến mưa
Mùa đông thay áo mùa hè lại sang
Thuyền quân súng pháo giăng hàng
Nguyễn Vương nhìn nỗi giang san nao lòng
Cơ đồ đang ở tầm mong
Phải nhanh để khỏi nhụt lòng ba quân
Trương cờ hướng thẳng Phú Xuân
2770- Nửa đêm đổ bộ lửa bừng khắp kinh
Trước thành, Ánh đứng điều binh
Giục quân áp sát cung đình bao vây
Giăng hàng đốt lửa móc dây
Tầm tên mảnh pháo rắc dày vào trong
Thủ thành Nữ tướng Thị Xuân
Bất ngờ: ‘sợi tóc ngàn cân’ thắt lòng:
"Tiên Vương ơi! Nước cạn dòng
thôi thì sống thác quyết lòng báo ân!
Chỉ buồn một nỗi ấu quân
2780- Ngây ngô hoá một gã đần đáng thương
Tối ngày ham hỉ buông tuồng
Hết gà chọi lại nập nờn cá chim
Hết nhắc Cậu lại xui em
Say sưa gà đá chém hiềm Lê Trung
Thương thay một bậc công thần
Lưỡi đao oan nghiệt đầu thân đoạn lìa
Lòng đau Lê Chất khóc cha
Theo hàng quân Nguyễn mới ra cảnh này
Than ôi! Trời rộng đất dày
2790- Tiên Vương ơi! Nỗi đắng cay bẽ bàng!
Chưa tròn hợp đã vuông tan
Chưa xanh sao nỡ sớm tàn hoa tim?
Chưa căng sao đã vội mềm
Ánh dương lảng tránh bóng đêm mò tìm
Quần thần văn võ lặng im
Ôi thôi! Cơ nghiệp đảo điên mất rồi!
Bao lời tâm huyết đã vơi
Xin trời chứng giám lòng tôi trước giờ!”
Than xong, Xuân phất cao cờ
2800- Thúc voi xông trận đạp bờ địch quân
Chớp lên song kiếm như thần
Ngỗn ngang thây đứt lan tràn máu tuôn
"Giục quân cấm vệ dọn đường
Dắt vua, gia quyến tẩu phương Bắc thành”
Còn mình tả đột hữu xông
Tượng binh hiệp trận ùn ùn đạp bương
Dưới trăng xác chết cựa trườn
Vòm cây loang lỗ tàng sương nhập nhoà
Vòng vây như giãn xa ra
2810- Hướng Tây voi ngựa quân và Xuân dong
Phía sau thành luỹ Phú Xuân
Ầm vang quân Nguyễn hét mừng chiến công
Vào cung Nguyễn Ánh ngước trông
Sân rồng điện ngọc có phần hơn xưa
"Mà sao bụi cát loang mờ
Lô nhô lắm ổ tò vò nhện giăng
Long sàn lành lạnh khói băng
Điện vua rờn rợn bóng trăng oan hồn
Bao năm bão táp dập dồn
2820- Ngờ đâu lá rụng cội nguồn gặp nhau
Hôm nay ta ngẩng cao đầu
Quyết soi chí cả năm châu hả lòng!”
Vương nhìn suốt dọc biển Đông
"Thấy trong thân một con rồng quấn ngang
Thấy mình oai vệ hiên ngang
Hai tay vịn lấy ngai vàng đứng lên
Triều thần văn võ tôn nghiêm
Bắc nam một cõi cúi nghiêng chúc mừng!”
Trong Vương lại bỗng ngập ngừng
2830- "Lòng dân, lòng tướng có cùng vì ta
Có cùng vì một sơn hà
Đấu lưng chung sức can qua bất kì”
Lại nghe bao tiếng thầm thì
Từ thời mở nước vân vi từng lời:
"Rằng con đã nhận mệnh trời
gắng công mang lại cho đời ấm no!
nước ta liền suốt cõi bờ
bắc nam là một sờ sờ ngàn năm
chỉ vì chúa Trịnh dã tâm
2840- tóm thâu quyền lực nẫy mầm cách chia
nay vua Lê đã an bề
Trịnh thì tan rã dạt về cõi không
Muôn dân đã hướng một lòng
Con mau thống nhất Lạc Hồng từ nay!”
Lòng Vương nửa tỉnh nửa say
Nửa lơi nắng nhạt nửa dày mưa thưa
Nửa chín xanh nửa như vừa
Nửa đang đời thực nửa chưa giấc hoè
Nửa còn e ấp sương che
2850- Nửa vương thiên cổ nửa về hoàng kim
Nửa xôn xao nửa im lìm
Nửa môi cười nụ nửa tim sôi trào
Lòng Vương lại những âm hao
"Thù nhà nợ nước biết bao đoạn trường:
Ngoái nhìn bao cảnh tang thương
Anh em chú bác máu xương cấu cào
Họ nhà trải sức cần lao
Di dân mở nước dựng rào biên cương
Cùng dân hùng cứ một phương
2860- Mong giang sơn mới- thiên đường ấm no!
Bỗng đâu dòng lũ bất ngờ
Bương qua cuốn rẹp cõi bờ tổ tiên
May đâu còn chút nhơn duyên
Giúp ta chèo chống con thuyền biển khơi
Giúp ta xoay hướng cơ trời
Lái con thuyền mệnh vào nơi bến bờ
Nhìn vào kẻ tóc chân tơ
Thù nhà không thể ngó lơ căm hờn?
Nguyện lòng truy tróc Tây Sơn
2870- Mẩu xương quyết nhặt oan hồn không tha!
Chờ mai xong việc sơn hà
Ai can gián sẽ làm ma không đầu!”
Vương nghe từng giọt canh thâu
"Phương Nam em gái ôm sầu khóc thân
Gào lên hai tiếng ‘Lang quân’
Đất Bình Định đã thiêu thân cứu thành
Mười lăm lăm mấy chiếu chăn
Mười lăm năm khói phong trần chiến chinh
Dặm xuân vừa bén đêm tình
2880- Đã nghe tiếng giục thầm thình trống quân
Vọng soi chiến thắng vang lừng
Màu trăng quan tái ngập ngừng phấn hương
Ngọc Du - Võ Tánh đoạn trường
Thương em, khóc tướng lòng Vương sóng trào
Bầu trời rụng mấy vì sao
Giang sơn mất mấy anh hào vì ta
Cao xanh dời đổi thiên hà
Con người lèo lái phong ba vận hành
Con người vốn thứ quả xanh
2890- Con người vốn giống hiền lành đười ươi
Bàn tay hái lấy quả người
Hàm răng cắn lấy quả tươi nhai dòn
Khắp sông hồ dọc núi non
Lao xao lố nhố xanh rờn đười ươi!
Ta đây cũng một con người
Làm sao giấu được cái đuôi giống nòi?”
Nghĩ xong Ánh lại phì cười
Nhìn qua cái bóng đười ươi đời mình
***
Từ thành Bình Định chông chinh
2900- Người dân Bình Định vô tình vua xưa
Lòng quân tướng lắm bơ phờ
Giòng sông Kôn nước lờ nhờ rong rêu
Rừng Tây Sơn Thượng tiều điều
Từng cây sơn giống liêu xiêu khô cành
Bỗng ầm tiếng trống vọng canh
Hung tin cấp báo kinh thành Phú Xuân
"Vua Tôi thất thủ vào rừng
hiện giờ quân Nguyễn truy lùng khắp nơi
triều đình cung cấm tơi bời
2910- tiếng la tiếng thét đầu rơi máu tràn
cả nhà Trần Mẫu chúng giam
Còn Xuân- Đô Đốc hướng Nam ngược vào!”
Nghe qua lòng Diệu nghẹn ngào:
"Mắt đang từng mảnh trăng sao chói loà
Nhìn về dằng dặc phương xa
Nhìn bà cháu dưới mái nhà kinh đô
Nhìn người vợ níu sắc cờ
Cố xoay nền móng cơ đồ vực lên
Bỗng ào mây khói bồng bềnh
2920- Tuôn theo dòng thác lênh đênh chân trời
Quân thần cách trở trùng khơi
Long , Lân đã bỏ cuộc chơi quan trường
Xuân Phong, Xuân Bảo đơn phương
Tuyết, Tú, Lộc ở cuối đường Bắc xa
Nơi này còn Dũng và ta
Lòng quân mệt mỏi sơn hà mong manh
Cố lòng dốc cả bình sanh
Một phen sống mái phải đành thế thôi!”
Nghĩ rồi Diệu quyết thành lời
2930- "Vẽ chương kế sách định nơi trận đồ
Chia ra hai đạo binh cơ
Vòng theo Thượng lộ, men bờ thuỷ quân
- Ta thì cánh bộ Trường sơn
- Còn anh Vũ Dũng trương buồm thẳng ra!
- Cố công gặp được vua nhà
- Thủ thành Trường Dục đợi ta họp bàn!”
Xong truyền phát lệnh ba quân
Cửa thành Bình Định âm thầm bóng đêm
Đường rừng đèo dốc chông chênh
2940- Gặp cơn mưa hạ thác nguồn trắng lăng
Quân lương ngày một khô dần
Lại thêm dịch tả sốt rừng tràn lan
Điểm binh còn lại hơn ngàn
Tong teo thể xác héo hon mặt mày
Cây thương lẫy bẫy đôi tay
Cán cờ gió vuột cuốn bay dật dờ
Diệu nghe từng nỗi bơ phờ
Từ trong sớ thịt qua bờ mắt sâu
Từ trong động tĩnh đứng ngồi
2950- Nghe trong vô vọng nói lời cảm thông
Bỗng đâu có tiếng voi gầm
Rồi nghe quân báo:”Thị Xuân- tướng Bà
Cách đây một đoạn không xa
Cùng hơn trăm lính bôn ba dò đường!”
Diệu nghe như thắt can trường
Dây tơ định mệnh cố hương buổi đầu
"Giữa ngày năm ấy mưa ngâu
Từ ngày năm ấy đôi đầu sớm trưa
Nhìn qua đâu đó như vừa
2960- Trải qua một giấc mơ chưa đuôi đầu!”
"Ước gì được một giấc sâu
Để ta gội sạch mái đầu trắng sương
Cùng ai phơi tấm lụa hường
Giúp cho mặt đất rộng đường nắng soi
Dạy con hai chữ làm người
Chữ trung chữ hiếu một lời khắc ghi!”
"Bỗng đùng trời đất ầm ì
Gió giông sấm sét biệt li nắng đào
Vỡ rơi từng mảng trăng sao
2970- Tóc tang nghẽn rối ngọt ngào tản bay
Xoay người còn ngợ đôi tay
Nhìn vào thì đã an bày như mơ
Đâu ai biết được chữ ngờ
Bao điều may rủi đang chờ phía sau
Đang nhen nhuốm để chuyển màu
Hay gieo hạt tử đợi trồi mầm sanh?”
Từng đêm Diệu ngắm cao xanh
Thiên cơ chừng đã vận hành chuyển nơi!
Thôi đành lui bởi cơ trời
2980- Nhưng còn một nỗi bời bời ruột gan
Người xưa dạy chữ ‘Tam Cang’
Chữ ‘Trung’ được xếp trên hàng ‘Hiếu Nhân’
Con ta cùng với Mẫu thân
Ôm nhau kêu khóc trong hầm thiên lao
Thân ta nếm đủ ngọt ngào
Nỡ lòng để mẹ máu trào đầu rơi?
Chắc đành quì gối chịu lời
Mai sau hậu thế mĩa cười cũng cam!”
Nghĩ rồi, Diệu nói như than:
2990- "Xuân ơi! Một chút đá vàng có nhau!
Ngày mai nắng có đổi màu
Bầu trời Xuân Diệu trước sau vẫn hồng!”
Than rồi Diệu vượt qua sông
Thị Xuân đang đứng vẫy chồng bờ non
Vợ chồng giáp mặt đang còn
Nhìn nhau chưa rạng dập dồn hai tin:
"-Cánh quân Vũ Dũng gãy buồm
Gặp cơn bão xoáy rách tươm ghe thuyền
Hằng ngàn binh lính chết chìm
3000- Vài trăm sống sót lim dim thất thần
Lờ đờ dạt cửa Linh Giang
Gặp Lê Văn Duyệt dẫn quân sục lùng
Xạc xoài từng tốp đói run
Dìu Đô đốc Dũng sốt rừng mê man
Nửa đêm bị bắt cả đoàn
Giải vào giam ở Nghệ An trạm chờ!”
"Khắp nơi quân Nguyễn lượn lờ
Xuân Phong lâm bịnh xanh mồ Hoành Sơn
Xuân Bảo hộ giá Vua Con
3010- Đánh sau chặn hậu lọt vòng địch vây
Quan binh nhà Nguyễn rải dày
Lần theo dấu vết quân Tây Sơn tàn!
Từ phương Nam ra Nghệ An
Một bờ thông suốt Nguyễn Hoàng điểm binh! ”
Vợ chồng Xuân- Diệu vói nhìn
"Nhìn qua hồi ức nét hình hài xưa
Lặng lờ như bóng mây trưa
Bên giòng sông cũ lưa thưa nắng vàng
Đung đưa hoa lá hương ngàn
3020- Dọc bờ lau lách sóng trườn gió ngân
Mấy vò rượu ủ men lung
Chíp môi còn ngọt khí hùng đất thiêng”
"Diệu nghe giòng chảy xa triền
Bao nhiêu hương vị vào miền mênh mông
Còn bên hai chữ vợ chồng
Ngồi ôm một khối tơ đồng nhìn nhau
Nói rằng duyên trước nợ sau
Mà sao nợ lại nát nhàu duyên xưa
Nợ đời, nợ nắng, nợ mưa
3030- Nợ nơi dưỡng dục nợ mùa máu xương
Nợ trong từng khúc đoạn trường
Hình hài cát bụi khói sương quê nhà?
Trăm năm làm kiếp người ta
Vòng vo qua lại chiếc phà bon chen
Hoá công vẫn một cây đèn
Thân người vẫn cứ nhá nhen triền đời
Chỉ là một cuộc dạo chơi
Hay là một cuộc di dời đỏ đen
Nơi đâu sang nơi nào hèn
3040- Lần mò hụp lặn mùn đen dát vàng
Để rồi tích tịch tình tang
Một vùng mây nước mơ màng chảy qua!”
Lòng Xuân thì cứ nhập nhoà
"Giá như ngày ấy đừng là hôm nay
Giá như trái đất đừng xoay
Vẫn nguyên đường nét râu mày thuyền quyên
Kiếm cung trăng suối hoa triền
Ngao du sơn thuỷ ngửa nghiêng rượu đàn
Lấy gì đâu để thở than
3050- Lấy gì đâu để bàng hoàng nhớ ra
Lấy gì đâu để xót xa
Lấy gì đâu để bướm hoa khô hồn!”
Diệu nhìn Xuân gạt tủi hờn:
"Đổi thân cứu mẹ đền ơn sinh thành!
cho dù có bị ô danh
thịt xương có bị tan tành cũng cam!
Thân dâu ắt phải nghiệp tằm!
Thân sen thì phải nghiệp đầm bùn tanh
Thân dây phải luỵ nghiệp cành
3060- Thân gươm chờ nghiệp máu xanh đoạn lìa
Đừng vì bầy cá lia thia
Mà làm nhem nhuốt nét bia trang đài!”
***
Chương12
Tháng Năm một tám linh hai
Nguyễn Vương Phúc Ánh lập đài đăng quang
Lên ngôi Hoàng Đế – Gia Long
Đổi Nam Việt thành Việt Nam nước nhà
Dồn quân chiếm lấy Bắc Hà
Tướng Lê Văn Duyệt giá xa chiến trường
Theo bên Lê Chất, Văn Trương,
3070- Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thường điểm binh
Cờ trương, trống giục thùng thình
Hai đường thuỷ bộ rập rình súng gươm
Quân Tây sơn tản lạc hồn
Chưa thua đã bỏ luỹ đồn rút lui
Từng ngày quân Nguyễn reo vui
Từng ngày Cảnh Thịnh sụt sùi trách thân
Từng ngày dân lính xa dần
Từng ngày đất Bắc bất cần Vua Nam
Hè nhau nói xấu Tây Sơn
3080- Hùa nhau nói tốt Nguyễn Vương bao điều
"Gió nồm mai Gió nồm chiều
Mong cho nồm thổi tấp nhiều điều may”
Xin trời đừng trở heo may
Để thuyền Chúa Nguyễn đêm ngày nhanh ra!”
Bắc thành quân tướng nhập nhoà
Võ Đình Tú, Tuyết lưới sa bỏ mình
Văn Lộc thọ bệnh quyên sinh
Anh em Cảnh Thịnh dân rình bắt giam
Tù nhân áp giải từng đoàn
3090- Vũ Văn Dũng, vợ chồng Xuân chung đường
Đang leo qua ải Hoành Sơn
Bất ngờ gặp toán áo đen cướp tù
Hai bên một trận hoả mù
Năm trăm lính Nguyễn tả tơi chạy dài
Toán quân cướp ấy là ai?
Người đang trước mặt rõ ngài Văn Long
Bốn huynh đệ lại mủi lòng
Nhìn nhau từng nỗi âm thầm riêng tư
Thấy trong ánh mắt mỏi nhừ
3100- Thấy qua đầu óc bù xù rối ren
Mặt trời đêm đốt cháy đen
Mặt trăng mưa ướt nhon nhen khói mờ
Ven rừng trăng trắng hoa mơ
Ven lòng ngờ ngợ nỗi ngờ mang theo
Dũng và Long nhẹ kiếp bèo
Vợ chồng Xuân Diệu nhìn nhau theo tù
Con đường mài tấm thân hư
Lào khào lộc cộc rừ rư bao ngày
Kinh thành trước mặt cờ bay
3110- Thương Trần Quang Diệu chân tay lạnh dần
Xe tù chưa kịp vào sân
Môi anh chưa kịp:”Mẩu thân! một lời!”
Hồn anh đã lướt lên trời
Thân anh trả lại nghiệp đời bụi tro
* **
Phú xuân, quân Nguyễn hét hò
Lớp hàng người ngựa chực chờ lệnh ban,
Tù nhân gông cũi chật sân
Từng ông đao phủ quai hàm bạnh ra
Mặt xanh hai mắt trắng ngà
3120- Lưỡi đao sáng ướt ánh qua thân người
Pháp trường trống đổ hồi tươi
Tiếng đao phầm phập, tiếng rơi phạch phành
Tiếng cười rin rít kẻ răng
Tiếng ai thườn thượt quại quằn tầm trông
Tiếng kêu tiếng rú chất chồng
Tiếng chuông dằng dặc tầng không ngân dài
Một ngày màu máu quánh ngai
Vua Gia Long đứng trước đài tế gươm
Môi Vua lời đặc cuộn cườm
3130- Mắt Vua hốc lửa lườm lườm ánh xanh
Trong ngoài quan tướng lạnh tanh
Từ Siêu, Duyệt, Đức, Văn Thành, Văn Trương,
Quan cơ hội Đặng Trần Thường
Quay ngang trước cảnh đau thương ngút trời
Bỗng nghe tiếng gọi:”- Anh ơi!”
Từ trong Hoàng tộc một người bước ra
Vịn ngai quì xuống khóc oà:
"Sao anh lại nỡ bày ra cảnh này?
Sao anh chẳng chút xót tay!
3140- Chuyện xưa sao lại đời nay truy đòi?
Bà Xuân ngựa xé rạc rời
Con bà voi đạp tả tơi thân gầy
Xác chồng bà cũng băm thây
Mẹ chồng bà cũng bầy nhầy thịt xương
Ai đem chi khúc đoạn trường
Trải ra trước mặt bao chương hãi hùng
Còn trò đào mã bới xương
Khắp nơi đầy cảnh tai ương oan hồn
Xin anh khép lại oán hờn
3150- Dừng ngay cho! Kẻo chẳng còn kịp đâu!”
Tiếng kêu thiếu phụ thấu trời
Gia Long vuốt mặt âu sầu nhìn em:
"Ngọc Du! Đừng quá yếu mềm!
Năm xưa chúng nó ngày đêm sục tìm
Giết lầm không bỏ sót tên
Cả dòng họ Nguyễn dập dềnh thân ta
Bây giờ thống nhất sơn hà
Muốn cho quốc thái dân hoà phải toan!
Chồng em- Thân cháy ra than
3160- Sao em không xót? Kêu vang nỗi gì?
Lui vào hãy cố im đi!
Quốc gia đại sự nữ nhi miễn bàn!”
Vua nhìn văn võ bá quan
Thấy lưng đáy mắt bụi vàng xốn xao
Thấy trong từng mảng máu đào
Tiếng rên nhầy nhụa tiếng trào lun run
Tiếng cười sằn sặc máu phun
Tiếng ai oán giọt lùn phùn mưa rơi
Vua nghiêng ánh mắt theo người
3170- Nói thêm câu để gút lời năm xưa
"Ngày mai ngưng chém tội đồ
những tên còn lại truyền đưa đi đày!”
Ba người sống sót đứng ngây
Một già hai trẻ chân tay gông cùm
Người già tóc chấm tới lưng
Râu dài tới ngực ngập ngừng nhìn con
Người trai thân thể gầy mòn
Tóc xoăn bù rối che vòm mắt sâu
Người con gái mặt héo sầu
3180- Ngoài hai mươi tuổi áo nâu chốn thiền
Ba người đứng trước cửa duyên
Tấm thân còn vướng nghiệp tiền chưa xong
Chữ sanh chừng đã muỗi mòng
Chợt nghe chữ tử tuột giòng qua phiên
Bây giờ đứng dựa bên triền
Mà nghe thời khắc giục miền ải xa
Lại chờ nhập hội phù hoa
Lại chờ một cuộc vấn tra cội nguồn!
Người già là Hoài Lê Lương
3190- Mười năm rau muối tránh đường binh đao
Mười năm ngồi ngắm trăng sao
Nhìn trang thế sự ba đào đổi thay
Thằng An quanh quẩn cỏ cây
Chí trai chôn dấu vui vầy khói sương
Đêm về con Thái trầm hương
Câu kinh tiếng kệ bên vườn mẹ xưa
Tưởng Trời dịu nắng nhẹ mưa
Ngờ đâu Vua Mới truy về tận nơi
Cha con ngước mặt ngậm lời
3200- Xuôi tay xiềng xích buông đời hố đêm
Tấm thân giờ đã rũ mềm
Tâm can giờ đã lặng im sóng trần
Cũng đành thả mặc đôi chân
Bước theo con tạo qua tầng biển dâu
Lắc lư giữa bến sông sầu
Bỗng nghe tiếng vọng giấc sâu đoạn trường
Từng lời ai oán bi thương
Lan ra từng ngụm sóng hương não nùng
Một bà tóc xõa ngang lưng
3210- Ngồi ôm cửa ngục chờn vờn áo xiêm
Dường như ánh mắt dõi tìm
Chút hương trầm mặc cuối miền hư không
Hai tay vuốt bóng tơ đồng
Hai chân duỗi đạp nỗi trong phạc phờ
Mắt bà rơi những ánh thơ
Môi bà rơi những chùm tơ dát vàng
Rồi như làn sóng lang thang
Tan vào cái cõi mơ màng trong Lương
Mờ xa cuối nẻo vô thường
3220- Hồn bà lướt giữa làn hương vĩnh hằng
Cửa tù lính ngục lăng xăng
Trình tâu bẩm báo dày trong chật ngoài
"Đầu bà máu ướt thấm vai
mắt bà giận dữ ánh dài giương to
môi bà cười mĩm như mơ
tay bà ve vẫy trước giờ ra đi!
Muôn tâu Thánh thượng! Chỉ vì .. .
Ngọc Hân- Bà ấy muốn ghi sử vàng!.. .”
Gia Long cúi mặt bàng hoàng
3230- Truyền đem mai táng sau vườn Ngự lâm
Rồi truyền tha bỗng Lê Lương
Cùng hai con được hồi hương quê nhà
Ba người lạy tạ bước ra
"Ôm theo ngào ngạt hương hoa một người
Mắt nhoà từng giọt nắng tươi
Phú Xuân ơi! Có nét cười cỏ cây
Giang sơn ơi! Có bóng ngày
Những con chim thả lắt lay cánh đào!
Mênh mông đất rộng trời cao
3240- Mang mang giấc mộng thủa nào khôn nguôi …!”
* **
KẾT
Trăm năm nhìn lại kiếp người
Ngây thơ mơ mộng cợt cười tính toan
Giựt giành che giấu bố ban
Sướng vui đau đớn bàng hoàng lệ rơi
Nhìn lên thầm trách ông trời
Nhìn vào thầm cám ơn đời ban ân
Gẫm câu thân nghiệp- thiệp ngân
Rằng tiền là thiệp tuỳ thân bên người
Mời anh- chào món hàng tươi
3250- Mời em- mua một nụ cười giai nhân
Mời nhau - lá thiệp phong trần
Mời đời- lắng khúc trong ngần trường thanh
Lời mơ từng giọt chong canh
Lung linh mảnh sáng vi thanh đoạn trường
Cho dù mai một khói sương
Xin cung kính gửi dòng hương tâm thành
HẾT
Qui nhơn ngày 11-5-2009
VŨ ĐÌNH NINH
TÓM LƯỢC
Chương 1: Từ câu 1 đến câu 138 – Lược sử, giới thiệu công chúa Ngọc Hân và giấc mơ của nàng trên đường lễ chùa ở núi Vu sơn trong ngày Nguyên tiêu.
Chương 2: Từ câu 139 đến câu 426 – Triều Nguyễn , nạn Phúc Loan . Tây Sơn tụ nghĩa , mở đầu chiến thắng phủ Qui Nhơn.
Chương 3: Từ câu 427 đến câu 868 – Những chiến công lẫy lừng của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ trực tiếp trận đánh và kế sách của Chúa Nhạc. Đám cưới công chúa Thọ Hương và Thế tử Dương. Chúa Trịnh chiếm kinh thành Phú Xuân và sắc phong cho Nhạc.
Chương 4: Từ câu 869 đến câu 1124 – Thế tử Dương vào ở chùa Thập Tháp . Chúa Nhạc lập mưu thả Thế tử Dương, tạo cơ hội để Lý Tài theo Dương chống Định Vương. Trận chinh Nam: kết thúc cuộc đời hai chúa và Lý Tài ở Gia định .
Chương 5: Từ câu 1125 đến câu 1376 – Nỗi lòng của Nguyễn Huệ về chiến công, về đất nước, về người tình . Giáo Hiến thất sủng, được chúa Nhạc cấp một khu nhà ở phía đông thành Qui nhơn. Hiến nhờ Chúa Nhạc tổ chức đám cưới cho Lê Lương và Hoài Sơn, con mình. Cuộc Bắc chinh của Nguyễn Huệ và việc cưới Ngọc Hân công chúa ở kinh thành Thăng Long.
Chương 6: Từ câu 1377 đến câu 1682 – Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh, lập vua Lê Chiêu Thống . Cảnh nhồi da xáo thịt Nhạc –Huệ. Phá âm mưu chuyên quyền của Nguyễn Hữu Chỉnh , Huệ giết sứ thần Trần Công Xán và Lê Duy Án . Cuộc phạt Bắc lần 2: giết Chỉnh. Thi hành quân pháp: chém Vũ Văn Nhậm ở Thăng long.
Chương 7: Từ câu 1683 đến câu 1958 – Nỗi lòng của Chánh cung Hoàng hậu và Đắc Tuyên. Nguyễn Huệ xưng đế, chiến thắng Đống Đa vĩ đại . Việc kinh bang và sự hồi tưởng của vua Quang Trung.
Chương 8: Từ câu 1959 đến câu 2354 – Sự lớn mạnh của Nguyễn Ánh ở phương Nam. Sự suy yếu của vua Thái Đức ở Qui nhơn. Các chương trình và sự cải cách của vua Quang Trung ở Phú Xuân. Cái chết đột ngột của ông và những biến động.
Chương 9: Từ câu 2355 đến câu 2502 – Nỗi lòng bà Hoài Sơn- người yêu Nguyễn Huệ khi biết hung tin. Cái chết của bà. Nỗi lòng của Lê Lương- chồng bà. Nỗi lòng của vua Nhạc sau giấc mơ và việc tổ chức tang lễ cho bà. Cái chết của vua Thái Đức và sự cầu nguyện của công chúa Thọ Hương.
Chương 10: Từ câu 2503 đến câu 2656 – Lê Lương đưa con đến Núi Bà lánh nạn. Lê Trung chết oan, Lê Chất theo hàng quân Nguyễn. Qui nhơn mất, thành Hoàng Đế đổi tên là thành Bình Định. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu được phong quan Hiệp trấn.
Chương 11: Từ câu 2657 đến câu 3062 – Sự mục rữa của triều đình Phú Xuân. Vợ chồng Xuân –Diệu mật thư giết Sở và
Tuyên. Diệu và Dũng chiếm thành Bình Định. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự vẫn.
Nguyễn Ánh dồn quân đánh chiếm Phú Xuân. Quân tướng Tây Sơn và sự tan rã. Nỗi lòng Nguyễn Ánh khi nhìn lại cung đình xưa và những khát vọng.
Chương 12: Từ câu 3063 đến câu 3256 – Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, đổi quốc hiệu, chiếm lấy Bắc Hà và sự trả thù của ông đối với nhà Tây Sơn…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Hoàng Lê nhất thống chí : Ngô gia văn phái . Bản dịch Ngô Tất Tố.
2- Đại Việt sử kí toàn thư. Ngô Sĩ Liên. Bản dịch của Cao Huy Giu . Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà nội 1973.
3- Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771-1802. Tạ Chí Đại Trường . Nhà xuất bản Văn học sử, Sài gòn 1973.
4- Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ. Nguyễn Lương Bích và Đặng Ngọc Phụng. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà nội 1971.
5- Việt nam văn học sử yếu . Dương Quảng Hàm. Bộ Giáo Dục Trung Tâm Học Liệu xuất bản 1968.
6- Thanh Thực Lục . Sử liệu chiến tranh Thanh – Tây Sơn . Dịch giả Hồ Bạch Thảo. Nhà xuất bản Hà Nội 2007.
7- Đại Nam Liệt Truyện toàn tập . Nhà xuất bản Thuận Hoá 1994.
8- Việt Nam Sử Lược toàn tập . Trần Trọng Kim . Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh năm 2000.
9- Sông Kôn Mùa Lũ. Nguyễn Mộng Giác. Nhà xuất bản Văn học 2003
10- Tây Sơn Bi Hùng Truyện . Lê Đình Danh - Nhà xuất bản văn hoá thông tin văn hoá 2006
CÁC BÀI VIẾT VỀ TẬP SÁCH TSATVT
Chương 2: Từ câu 139 đến câu 426 – Triều Nguyễn , nạn Phúc Loan . Tây Sơn tụ nghĩa , mở đầu chiến thắng phủ Qui Nhơn.
Chương 3: Từ câu 427 đến câu 868 – Những chiến công lẫy lừng của quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ trực tiếp trận đánh và kế sách của Chúa Nhạc. Đám cưới công chúa Thọ Hương và Thế tử Dương. Chúa Trịnh chiếm kinh thành Phú Xuân và sắc phong cho Nhạc.
Chương 4: Từ câu 869 đến câu 1124 – Thế tử Dương vào ở chùa Thập Tháp . Chúa Nhạc lập mưu thả Thế tử Dương, tạo cơ hội để Lý Tài theo Dương chống Định Vương. Trận chinh Nam: kết thúc cuộc đời hai chúa và Lý Tài ở Gia định .
Chương 5: Từ câu 1125 đến câu 1376 – Nỗi lòng của Nguyễn Huệ về chiến công, về đất nước, về người tình . Giáo Hiến thất sủng, được chúa Nhạc cấp một khu nhà ở phía đông thành Qui nhơn. Hiến nhờ Chúa Nhạc tổ chức đám cưới cho Lê Lương và Hoài Sơn, con mình. Cuộc Bắc chinh của Nguyễn Huệ và việc cưới Ngọc Hân công chúa ở kinh thành Thăng Long.
Chương 6: Từ câu 1377 đến câu 1682 – Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa phò Lê diệt Trịnh, lập vua Lê Chiêu Thống . Cảnh nhồi da xáo thịt Nhạc –Huệ. Phá âm mưu chuyên quyền của Nguyễn Hữu Chỉnh , Huệ giết sứ thần Trần Công Xán và Lê Duy Án . Cuộc phạt Bắc lần 2: giết Chỉnh. Thi hành quân pháp: chém Vũ Văn Nhậm ở Thăng long.
Chương 7: Từ câu 1683 đến câu 1958 – Nỗi lòng của Chánh cung Hoàng hậu và Đắc Tuyên. Nguyễn Huệ xưng đế, chiến thắng Đống Đa vĩ đại . Việc kinh bang và sự hồi tưởng của vua Quang Trung.
Chương 8: Từ câu 1959 đến câu 2354 – Sự lớn mạnh của Nguyễn Ánh ở phương Nam. Sự suy yếu của vua Thái Đức ở Qui nhơn. Các chương trình và sự cải cách của vua Quang Trung ở Phú Xuân. Cái chết đột ngột của ông và những biến động.
Chương 9: Từ câu 2355 đến câu 2502 – Nỗi lòng bà Hoài Sơn- người yêu Nguyễn Huệ khi biết hung tin. Cái chết của bà. Nỗi lòng của Lê Lương- chồng bà. Nỗi lòng của vua Nhạc sau giấc mơ và việc tổ chức tang lễ cho bà. Cái chết của vua Thái Đức và sự cầu nguyện của công chúa Thọ Hương.
Chương 10: Từ câu 2503 đến câu 2656 – Lê Lương đưa con đến Núi Bà lánh nạn. Lê Trung chết oan, Lê Chất theo hàng quân Nguyễn. Qui nhơn mất, thành Hoàng Đế đổi tên là thành Bình Định. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu được phong quan Hiệp trấn.
Chương 11: Từ câu 2657 đến câu 3062 – Sự mục rữa của triều đình Phú Xuân. Vợ chồng Xuân –Diệu mật thư giết Sở và
Tuyên. Diệu và Dũng chiếm thành Bình Định. Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tự vẫn.
Nguyễn Ánh dồn quân đánh chiếm Phú Xuân. Quân tướng Tây Sơn và sự tan rã. Nỗi lòng Nguyễn Ánh khi nhìn lại cung đình xưa và những khát vọng.
Chương 12: Từ câu 3063 đến câu 3256 – Nguyễn Ánh lên ngôi Hoàng đế, đổi quốc hiệu, chiếm lấy Bắc Hà và sự trả thù của ông đối với nhà Tây Sơn…
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1 Hoàng Lê nhất thống chí : Ngô gia văn phái . Bản dịch Ngô Tất Tố.
2- Đại Việt sử kí toàn thư. Ngô Sĩ Liên. Bản dịch của Cao Huy Giu . Nhà xuất bản khoa học xã hội Hà nội 1973.
3- Lịch sử nội chiến ở Việt nam từ 1771-1802. Tạ Chí Đại Trường . Nhà xuất bản Văn học sử, Sài gòn 1973.
4- Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ. Nguyễn Lương Bích và Đặng Ngọc Phụng. Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà nội 1971.
5- Việt nam văn học sử yếu . Dương Quảng Hàm. Bộ Giáo Dục Trung Tâm Học Liệu xuất bản 1968.
6- Thanh Thực Lục . Sử liệu chiến tranh Thanh – Tây Sơn . Dịch giả Hồ Bạch Thảo. Nhà xuất bản Hà Nội 2007.
7- Đại Nam Liệt Truyện toàn tập . Nhà xuất bản Thuận Hoá 1994.
8- Việt Nam Sử Lược toàn tập . Trần Trọng Kim . Nhà xuất bản TP. Hồ Chí Minh năm 2000.
9- Sông Kôn Mùa Lũ. Nguyễn Mộng Giác. Nhà xuất bản Văn học 2003
10- Tây Sơn Bi Hùng Truyện . Lê Đình Danh - Nhà xuất bản văn hoá thông tin văn hoá 2006
CÁC BÀI VIẾT VỀ TẬP SÁCH TSATVT
Cảm nhận riêng về Tây Sơn ai tư vãn truyện của Vũ Đình Ninh (HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM Địa chỉ: 9 Nguyễn Đình Chiểu - Hai Bà Trưng - Hà Nội - Việt Nam) Nguyễn Đăng Trình ( 7/22/2009 4:34:51 PM ) |
Nhớ lại có lần trong bàn nhậu, đang rôm rả câu chuyện văn chương thi phú, tôi chợt nổi hứng phán bừa một câu: "nếu Nguyễn Du cùng thời với đám tụi mình chắc ông không viết Truyện Kiều kiểu đó” làm anh em tá hỏa. Một anh bạn lừ mắt: "sao dzậy mậy?”. Tôi cười cười: "Dài quá, lấy đâu ra bia mà nộp phạt chứ còn sao nữa, ông”. Mấy anh em còn lại đồng thanh: "À há!”. Chả là trong giới văn nghệ Sài Gòn lúc bấy giờ có cái luật bất thành văn là đang khi nhậu anh nào lỡ đem vài ba câu thơ ra đọc thì phải tự giác nộp phạt mấy ve vì cái tội tra tấn anh em trong lúc bù khú. Ấy thế mà bây giờ có một anh bạn xăm mình dám đem cả 3256 câu thơ ra "mời” anh em đọc! Đó là Vũ Đình Ninh, một cây bút chưa [thèm] nổi đình nổi đám ở đất võ Bình Định bằng những sáng tác lẻ tẻ mà bằng một truyện thơ đồ sộ dài hơn Truyện Kiều 2 câu mới bạt mạng chứ! Và tôi đã đọc Tây Sơn ai tư vãn truyện... Vì là thơ lục bát và nội dung dựa theo tài liệu lịch sử thời Tây Sơn nên tôi đã mất đi ít nhiều cái cảm giác bị tác giả tra tấn hồi nào không hay. Thú thật đọc đến câu thứ 3256, tôi không thở dài đánh sượt một cái như cách đây dễ hơn 40 năm sau khi gấp lại cuốn Truyện Kiều. Không phải Tây Sơn ai tư vãn truyện hơn hoặc kém Truyện Kiều mà có lẽ vào tuổi này tôi tỉnh táo hơn, sỏi đá hơn. Rất là thiếu sáng suốt khi làm một cuộc so sánh lúc này và ngay cả trong tương lai. Đó là công việc của giới phê bình. Ở đây, tôi và các bạn chỉ có thể chia sẻ và thâm cảm với Vũ Đình Ninh vì cùng chung cái phận con tằm, mà tằm không nhả tơ thì biết phải làm gì? Cho dù mỗi con tằm có cách nhả tơ riêng. Cách của con - tằm – vũ – đình – ninh thì: Nhìn lên thầm trách ông trời Nhìn vào thầm cám ơn đời ban ân Gẫm câu thân nghiệp - thiệp ngân Rằng tiền là thiệp tùy thân bên người Mời anh - chào món hàng tươi Mời em - mua một nụ cười giai nhân Mời nhau - lá thiệp phong trần Mời đời - lắng khúc trong ngần trường thanh Lời mơ từng giọt chong canh Lung linh mảnh sáng vi thanh đoạn trường Cho dù mai một khói sương Xin cung kính gửi dòng hương tâm thành... ... sau khi anh đã một lần nữa tự hỏi và tự trả lời cái câu hỏi xưa như trái đất mà cũng mới như quả địa cầu: Tà gian? Chính nghĩa? Rằng ừ! Một vòng lẩn quẩn gầm gừ lấy nhau Núi sông ngầm ngập máu đào Cỏ cây xơ xác hồ ao nhầy nhùa Còn là được mất là thua Ngàn năm hai chữ Giặc – Vua xanh giờn. Thật hay, thật khéo cái câu: "một vòng lẩn quẩn gầm gừ lấy nhau”. Cứ như một chuỗi dây xích được kết bằng những chiếc khoen xen kẽ nhau: thắng - thua... thua - thắng, thịnh - suy... suy - thịnh, giặc - vua... vua - giặc, chính - tà... tà - chính, vay - trả... trả vay... đã trói gô không biết bao nhiêu số phận, bao nhiêu thế hệ... vào các cuộc tương tranh tương thù... bất tuyệt tưởng như không hồi kết thúc: Tàn dư Nhạc phải thẳng tay Nhổ cho sạch rễ chớ rày buông lơi! Dò tìm tông tích từng nơi Như xưa nó giết hết người nhà ta! Tùng Châu nghe thế khóc òa Lạy tâu Vương Nguyễn xin qua sự tình: Mong người suy xét anh minh! Làm như thế hóa hẹp tình khó thay! Ngàn xưa cho tới thời nay Tấm lòng minh chúa vòng tay hải hà Đừng vì một chút lo xa Mà quên hai chữ đó là lòng dân! Đụng vào cái câu hỏi và chạm vào cái câu trả lời nhạy cảm và thời sự của muôn đời trên có vẻ như Vũ Đình Ninh muốn nhập vai vào tất cả các nhân vật lớn nhỏ, chính diện hay phản diện của lịch sử một thời để đau trọn vẹn cái đau của nhân thế, để buồn sâu sắc cái buồn của thời cuộc, để thấm thía tột cùng cái thấm thía của thảm cảnh nồi da xáo thịt, trong khi trước đây 300 năm Nguyễn Du xem chừng chỉ hóa thân vào mỗi Thúy Kiều để than thân trách phận và biện minh cho sự bất lực của mình trước cơn cuộc nhiễu nhương vật chuyển sao dời thay ngôi đổi chủ: Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh tao mới dự phần thanh tao. Không phải Vũ Đình Ninh tham lam gì đâu mà có lẽ phải như thế thì anh mới sống đến tận cùng cái kiếp người trong cái bi kịch người chăng? Hy vọng đây chỉ là cảm nhận của riêng tôi. Và tôi tin rằng mỗi bạn đọc sẽ có cảm nhận của riêng mình khi lẩn dở từng số phận, từng hoàn cảnh, từng biến cố, từng chặng thăng trầm, từng hồi vinh nhục, từng nguồn cơn ngóc ngách... của thế thái nhân tình được Vũ Đình Ninh phục hiện lại trên cái nền lịch sử của vương triều ngắn ngủi Tây Sơn...
Saigon, 21. 7.2009
Nguyễn Đăng Trình Nguyên Chủ biên hợp tuyển Thời Văn Nhà xuất bản văn nghệ TP. Hồ Chí Minh |
Đọc " Tây Sơn Ai tư vãn truyện" NGUT Trương Tham ( 9/15/2009 2:12:36 PM HỘI NHÀ VĂN VIỆT NAM) |
Có lẻ đã lâu lắm rồi mới thấy xuất hiện một truyện thơ dài hơi và hoành tráng đến vậy ! Khác với những truyện thơ trong lịch sử văn chương, có những phần hư cấu nhưng căn bản tác giả dựa vào một sự thật hào hùng và bi tráng về Tây Sơn – Nguyễn Huệ. Một sự thực đã đi vào lịch sử và đời sống tâm hồn dân tộc như một niềm tự hào kiêu hãnh . Điều đầu tiên ghi nhận – tác giả tỏ ra hiểu biết và nghiên cứu kỹ lưỡng về sự thật lịch sử ấy. Bằng nghệ thuật bút pháp và tình cảm sâu sắc cộng với nội lực dồi dào, tác giả đã xâu chuỗi, khái quát thành một kết cấu chặt chẽ, mạch lạc để hoàn thành một truyện thơ dài 3256 dòng lục bát . Tưởng chừng như dễ , nhưng không dễ chút nào ! Vì đó là cả một giai đoạn lịch sử đầy biến động từ khi Tây Sơn dấy nghĩa đến khi Nguyễn Ánh lên ngôi với biết bao sự kiện . Hàng loạt nhân vật hình thành trên bối cảnh lịch sử gắn bó máu thịt với đời sống ấy . Một vài nhân vật hư cấu xuất hiện nhưng căn bản là những nhân vật lịch sử có thật . Nhân vật nào cũng có nét riêng cụ thể . Nguyễn Huệ – Quang Trung , người viết không trực tả mà để xuất hiện trong lòng và tâm trí của nhân dân cũng như trong ước mơ khao khát của Ngọc Hân " Ba quân quen giọng chuông đồng Voi rừng qui phục dáng thần uy nghi …Tim nàng chưng đã nghe rền nỗi ngây”. Còn Bùi Đắc Tuyên thì "Có đôi mắt cáo thâu đêm nhón người …” khi thâu tóm được quyền lực " Săm sua mũ áo, lăng xăng uy quyền …”.Cùng vẻ đẹp của người con gái, nhưng Ngọc Hân ” Ngẩn người hai chữ đoan trang Vầng trằng mười sáu sáng tràn màu da”. Ngọc Du quận chúa”Mười năm lưu lạc mà trong như ngần”. Nguyễn Huệ từ khi còn rất trẻ đã có những suy nghĩ khác thường. Trong lúc được thầy giáo Hiến chia xẻ”Chờ khi giết bọn bất nhân Lòng ta với chúa khó phần đổi thay…” Thì Huệ đã tỏ bày quan điểm”Chữ trung nghĩa đến đời nay vẫn nhiều …”. Để đi vào vấn đề chính là "dân an , nước thái.” Đó là tư tưởng xuyên suốt trong cuộc đời Ông cũng như các tướng lĩnh của Ông . Đối lập với tư tưởng ấy là Nguyễn Ánh – Gia Long. Tự thân bộc bạch ý chí quyết tâm của mình là dành lại bằng được ngôi báu, thoả mãn việc trả thù riêng, kẻ nào thuận thì sống nghịch là mất đầu ”…Nhổ cho sạch rễ chớ rày buông lơi … Như xưa nó giết hết người nhà ta …Ai can gián sẽ làm ma không đầu ”. Nguyễn Ánh là một nhân vật được xây dựng khá sắc nét ” Lách luồn bất chấp nghĩa nhân …” khi thì ” Ăn bờ ở bụi rước ngoài dày trong”. Lúc trả thù, trước cảnh đầu rơi máu chảy "Tiếng cười rin rít kẽ răng … Mắt Vua hốc lửa lườm lườm ánh xanh ” cũng có lúc” Lặng nhìn suốt cuộc trần ai” để không khỏi kinh hoàng "Bờ sinh bến tử bàng hoàng máu me” rồi tự nhận ra mình " … Nhìn qua cái bóng đười ươi đời mình”. Là con người nhưng cái bóng đươi ươi, là con người nhưng làm những việc mất hết tính người thì ý nghĩa mới thật sâu sắc. Trong toàn tác phẩm, hình ảnh của nhân dân là một hình ảnh đậm nét. Tác giả đã diễn tả sự thay đổi trong thái độ của nhân dân đối với triều đại Tây Sơn. Nguyễn Huệ – Quang Trung đã cùng nhân dân làm nên nghiệp lớn, được nhân dân tôn thờ. Sau khi Ông qua đời, triều đình thối nát thì lòng dân lại chán ghét dẫn tới sự trông chờ chúa Nguyễn, dù sự trông chờ ấy có mong manh ”Xin trời đừng trở heo may Để thuyền chúa Nguyễn đêm ngày nhanh ra”. Diễn tả sự thực lịch sử này, tác giả đã nêu lên sự phân minh sáng suốt, cũng như khát vọng về cảnh thanh bình độc lập như một khát vọng muôn đời của dân tộc. Điều nổi bật ở đây là người con của Quang Trung được tác giả hư cấu trong truyện – một giọt máu anh hùng được nhân dân nuôi dưỡng đã vuột ra khỏi lưỡi hái tử thần của Gia Long mà sống sót như một cánh chim trời "Mênh mông đất rộng trời cao Mang mang giấc mộng thuở nào khôn nguôi”. Tác phẩm đã khép lại nhưng đồng thời mở ra về sự trường tồn bất tử của Tây Sơn Nguyễn Huệ. Thơ là tình cảm, nhưng là truyện thơ thì sự kết hợp giữa yếu tố truyện và tình cảm phải có sự cân nhắc. Tác giả nặng về phía tình nên phần lớn ý thơ chưa bật hết sự hào sảng toả sáng của hào khí Tây Sơn. Nhiều đoạn thơ rất hay càng đọc càng thấy hay "…Chìa tay níu lại vùng trăng Non tây đãđiểm thùng thằng trống canh …” nhưng cũng không tránh khỏi một vài đoạn lời thơ chưa thật đẹp bởi bản thân tác phẩm là một truyện thơ dài. Ngay cả Truyện Kiều "Trên yên sẵn có con dao…” hay Lục Vân Tiên " Vợ Tiên là Trực chị dâu” thì Vũ Đình Ninh làm sao không có những câu kiểu như " Tấm thân tố nữ mượt mà Mượt mà dáng dấp lụa là mượt hơn” . Nhìn chung "Tây Sơn Ai Tư Vãn Truyện” là một tác phẩm văn chương thực sự. Tác phẩm ấy lại ra đời trên mảnh đất Tây Sơn
Qui nhơn tháng 9 năm 2009
Nhà giáo ưu tú Trương Tham |
Đứa con sống sót của Nguyễn Huệ trong "Tây Sơn Ai tư Vãn Truyện" của Vũ Đình Ninh
Bài viết: Lê Bá Duy (http://vanthoviet.com/)
"Tây Sơn Ai Tư vãn truyện” là một truyện thơ của Vũ Đình Ninh dài 3256 câu viết theo thể lục bát truyền thống. Đây là một câu chuyện về một triều đại Tây Sơn bi hùng được Vũ Đình Ninh tái hiện bằng ngôn ngữ thơ đậm đặc chất đăng đối, nhan nhản ngôn ngữ mang phong cách Vũ Đình Ninh không lẫn lộn vào đâu được. Đọc một mạch truyện thơ, rồi đọc lại, tôi thích chi tiết sáng tạo mà tác giả đưa vào trong truyện. Chi tiết này không có trong hai cuốn tiểu thuyết: "Tây Sơn bi hùng truyện” của Lê Đình Danh và "Sông Côn mùa lũ” của Nguyễn Mộng Giác. Đó chính là chi tiết đứa con của Quang Trung với bà Hoài Sơn- con ông giáo Hiến- còn sót lại trong dân gian…
Tác giả "Tây Sơn ai tư vãn truyện” đã hé lộ chi tiết này trong đoạn trích từ câu 1148 đến câu 1182. Hoài Sơn là người con gái của thầy giáo Hiến- người thầy mà Nguyễn Huệ kính yêu, đối xử kính trọng như cha. Khi Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ theo học thầy Hiến, Hoài Sơn và Huệ mến nhau, quý nhau rồi đem lòng yêu thương…
Còn nguyên giấc mộng Nam Kha
Cùng nàng Sơn- thuở nhạt nhòa ước mơ
Mối tình đầu trắng như tơ
Mong manh như khói ngây thơ như Hằng…
Và tác giả đã xây dựng một chi tiết tinh ý mới nhận ra:
Có lần lần ấp ủ chiếu chăn
Nhớ hương đầu nụ trọc trằn chí trai
Từ tình yêu trong trắng ngây thơ và âm thầm mãnh liệt. "Có lần” và điều ấy đến với hai người, để rồi sau lần "ấp ủ chiếu chăn” ấy cả hai không thể nào quên "mối tình đầu” với "hương đầu nụ”. Nhưng với Nguyễn Huệ, chí trai trải dài sông bể- dẫu "thầm mong như Liễu Chương Đài/ Giữ xanh lời hẹn dặm dài nhánh xuân” Và mối tình đầu ấy tuy đẹp đẽ nhưng không có duyên phận…
Hay đâu giữa cuộc phong trần
Hồng nhan lạc phận tần ngần trúc mai
Quay lưng tháo gót thay hài
Bước theo số mệnh an bài phận duyên
Hoài Sơn- người yêu đầu đời của Nguyễn Huệ lại lấy người khác- người con nuôi của ông giáo Hiến - Hoài Lê Lương. Oái oăm thay lại do chính Nguyễn Nhạc đứng ra chủ hôn. Cũng có thể Nguyễn Nhạc biết em mình yêu Hoài Sơn, nhưng không muốn em làm rể ông giáo; cũng có thể tham vọng người anh lớn hơn, muốn Huệ giúp mình hoàn thành đại nghiệp. Bởi vậy Nguyễn Huệ đành "khóa kín ngậm ngùi” "gánh ưu phiền” rong ruổi "khắp miền biên cương” nhưng lúc nào vẫn mang theo hình bóng Hoài Sơn. Hai câu thơ: "Mới hay cái kiếp phong trần/ Thấy cao lại thấp thấy gần lại xa…” khái quát một triết lý từ chiêm nghiệm của bản thân: những điều hóa gần lại hóa xa…
Sau cuộc hôn nhân của Hoài Sơn và Lê Lương, Nguyễn Nhạc cảm thấy áy náy khi nhìn đứa em trai cứ nhớ về mối tình đầu. Ông tìm trong đám quần thần "Cô Bùi- em Út Đắc Tuyên” để gợi duyên. Và cuộc hôn nhân Nguyễn Huệ với cô Út nhà họ Bùi tiến hành…
Tưởng sự việc bình yên không có gì bàn về hai cuộc hôn nhân được người khác sắp đặt, yên ổn, nhưng Vũ Đình Ninh lại dẫn dắt người đọc đi theo ý đồ định trước, hé lộ thông tin mới về đứa con của Nguyễn Huệ với bà Hoài Sơn sau cái lần "ấp ủ chiếu chăn” ấy mà cả Nguyễn Huệ không hề biết, vả lại cũng không có cơ hội để Hoài Sơn nói với Huệ. Tám tháng sau ngày cưới Lương- Sơn, đứa con trai tên An ra đời:
Vừa tròn tám tháng đã sinh
Nay mười lăm tuổi giống anh tý nào?
Lòng Lương lắm lúc tự hào
Nhìn thằng An lớn càng cao nỗi thầm
Mặt vuông, mắt sáng, tóc xoăn
Tay dài, vai rộng, da ngâm, dáng hùng
Càng lớn An càng giống Huệ như đúc. Lúc ấy, tuy buồn nhưng vì yêu vợ, yêu dòng máu anh hùng Tây Sơn Bình Định, Lê Lương chấp nhận sự thật và xem An như con đẻ của mình. Khi nghe tin Quang Trung băng hà, Hoài Sơn sững sờ đau đớn, nhìn con rồi nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng với những lỗi lầm sâu thẳm giấu kín đáy lòng mà rưng rưng dòng lệ:
Cùng nhau nghĩa vợ tình chồng
Cùng nhau chôn kín lỗi lầm thẳm sâu…
Bỗng dưng trời đổ mưa ngâu
Cành lan huệ lại u sầu dáng xưa
Như vậy đến đây người đọc khẳng định điều mà Vũ Đình Ninh dụng công xây dựng để Hoài Sơn có con với Nguyễn Huệ rồi lấy Lê Lương là một dụng ý. Mãi đến cuối truyện, chi tiết hé lộ thêm dụng ý này. Khi Nguyễn Ánh lên ngôi, trả thù nhà Tây Sơn, truy lùng bắt cả dòng họ, tướng lĩnh Tây Sơn tàn sát…không biết được giọt máu cuối cùng còn sót lại của Quang Trung là An nên thả cha con Lê Lương về quê:
Rồi truyền tha bổng Lê Lương
Cùng hai con được hồi hương quê nhà…
Ba người lạy tạ bước ra
"Ôm theo ngào ngạt hương hoa một người
Mắt nhòa từng giọt nắng tươi
Phú Xuân ơi! Có nét cười cỏ cây
Giang sơn ơi! Có bóng ngày
Những con chim thả lắt lay cánh đào!
Mênh mông đất rộng trời cao
Mang mang giấc mộng thuở nào khôn nguôi…!”
Chi tiết về An- giọt máu sót lại của Quang Trung, tuy nhỏ nhưng mang một ý nghĩa vô cùng lớn lao: Dù kẻ thù có lật đổ một triều đại bi hùng, có nhổ cỏ tận gốc dòng họ nhà Tây Sơn. Nhưng dòng máu anh hùng Nguyễn Huệ - một người con vĩ đại - vẫn còn tồn tại, vẫn bất tử và không gì có thể hủy diệt được.
Hơn hai trăm năm lùi vào quá khứ, trải qua biết bao cuộc kháng chiến của nhân dân giành độc lập tự do cho đất nước, cái chất anh hùng của Quang Trung- Nguyễn Huệ vẫn sống trong lòng nhân dân Bình Định nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung. Tinh thần bất khuất, đoàn kết chống ngoại xâm, minh chứng cho truyền thống yêu nước của người Việt. Dòng máu Tây sơn anh kiệt còn lưu truyền trong dân gian đến ngày nay và mãi mãi sau này.
Một chi tiết nhỏ - đứa con Quang Trung còn sót lại trong dân gian- là một chi tiết sáng tạo trong "Tây Sơn Ai tư vãn truyện” nhưng vấn đề tư tưởng không hề nhỏ. Chúc mừng Vũ Đình Ninh đã thành công trong việc thể hiện ý đồ của mình...
Tuy Phước, ngày đầu tháng 7 năm 2010
Lê Bá Duy
Lê Bá Duy
ĐỌC TÂY SƠN AI TƯ VÃN TRUYỆN
NGUYỄN TRỌNG TẠO (hoingovanchuong.wordpress.com/)
Cái thời tốc độ công nghệ thông tin như không còn cả không gian lẫn thời gian này, mà vẫn có người dám ngồi viết truyện thơ như thuở Nguyễn Du viết Truyện Kiều mấy trăm năm trước, cũng có thể nói là lạ. Nhưng Vũ Đình Ninh đã làm điều đó. Anh làm say sưa như để sống lại với lịch sử thời Tây Sơn – Nguyễn Huệ – Quang Trung với những trang vàng rực rỡ và cũng đầy bi ai của dân tộc Việt Nam thông qua tình sử Ngọc Hân. Đó là truyện thơ "Tây Sơn – Ai tư vãn truyện” của Vũ Đình Ninh viết bằng thể lục bát truyền thống có 12 chương gồm 3256 dòng thơ (dài hơn Truyện Kiều của Nguyễn Du 2 dòng), như một linh ứng sáng tạo dù vô tình hay hữu ý cũng làm cho người đọc không thể không nhớ đến kiệt tác của người xưa. Bởi vậy, khi nhận được bản thảo truyện thơ này, tôi hết sức ngần ngại ngay từ khi đọc những dòng đầu tiên:
Bon chen làm kiếp con người
Có ai nghĩ đến nghiệp đời trớ trêu
Chữ thân chữ nghiệp duyên nhau
Thân hoa nghiệp bướm thân dâu nghiệp tằm
Cái điệu thơ đăng đối thật xưa cũ cùng với những triết lý nhân quả cũng rất cũ xưa ấy, nó làm cho tâm hồn tôi bỗng cũ đi lạ lùng. Nhưng vì đã có một lời hứa với tác giả nên tôi cố đọc, và thật bất ngờ, càng đọc lại càng thấy mình như nhập vào cái không gian và thời gian của lịch sử xa xưa ấy. Thì ra chọn "điệu cũ” lại chính là chủ ý của tác giả. Cái "điệu cũ” này như tái hiện lại những gì cần chân thực mà tác phẩm sẽ mang tới độc giả hôm nay. Cũng như Ngọc Hân đã học giọng điệu từ bản dịch "Chinh phụ ngâm” để viết nên áng thơ khóc chồng "Ai tư vãn” bất hủ, Vũ Đình Ninh học Nguyễn Du và học cả Ngọc Hân nữa. Cứ chậm rãi như thế, cứ miên man như thế và ngòi bút cũng nhiều khi linh hoạt đến thế…
Hai hàng văn võ cúi buồn
Vương Thung – mưu sĩ tìm phương sách hoà
Không ngờ trúng kế quân ngoa
Anh em – cái hố bất hoà thêm sâu
Có lẽ nhờ cái giọng kể linh hoạt này mà câu chuyện càng hồi càng hấp dẫn chăng?
Đúng vậy, lịch sử thời Tây Sơn hiện lên qua ngòi bút Vũ Đình Ninh thật sinh động và hấp dẫn. Từ cuộc khởi nghĩa của anh em Nguyễn Huệ đến cuộc phò Lê diệt Trịnh, thống nhất giang sơn với bao biến cố nội tình đều được thể hiện như một cuộc cách mạng long trời lở đất. Và rốt cuộc, sự thất bại của Tây Sơn trước Nguyễn Ánh là một bi kịch mà không chỉ một mình Ngọc Hân cảm thấy, mà chính lịch sử cũng sụt sùi:
Một bà tóc xõa ngang lưng
Ngồi ôm cửa ngục chờn vờn áo xiêm
Dường như ánh mắt dõi tìm
Chút hương trầm mặc cuối miền hư không
Truyện thơ khép lại bằng sự trả thù của Nguyễn Ánh với nhà Tây Sơn, và nỗi ai oán như theo ta mãi đến hôm nay.
Cám ơn Vũ Đình Ninh đã cho tôi được gặp lại lịch sử với bao thăng trầm của kiếp người.
NGUYỄN TRỌNG TẠO (hoingovanchuong.wordpress.com/)
Cái thời tốc độ công nghệ thông tin như không còn cả không gian lẫn thời gian này, mà vẫn có người dám ngồi viết truyện thơ như thuở Nguyễn Du viết Truyện Kiều mấy trăm năm trước, cũng có thể nói là lạ. Nhưng Vũ Đình Ninh đã làm điều đó. Anh làm say sưa như để sống lại với lịch sử thời Tây Sơn – Nguyễn Huệ – Quang Trung với những trang vàng rực rỡ và cũng đầy bi ai của dân tộc Việt Nam thông qua tình sử Ngọc Hân. Đó là truyện thơ "Tây Sơn – Ai tư vãn truyện” của Vũ Đình Ninh viết bằng thể lục bát truyền thống có 12 chương gồm 3256 dòng thơ (dài hơn Truyện Kiều của Nguyễn Du 2 dòng), như một linh ứng sáng tạo dù vô tình hay hữu ý cũng làm cho người đọc không thể không nhớ đến kiệt tác của người xưa. Bởi vậy, khi nhận được bản thảo truyện thơ này, tôi hết sức ngần ngại ngay từ khi đọc những dòng đầu tiên:
Bon chen làm kiếp con người
Có ai nghĩ đến nghiệp đời trớ trêu
Chữ thân chữ nghiệp duyên nhau
Thân hoa nghiệp bướm thân dâu nghiệp tằm
Cái điệu thơ đăng đối thật xưa cũ cùng với những triết lý nhân quả cũng rất cũ xưa ấy, nó làm cho tâm hồn tôi bỗng cũ đi lạ lùng. Nhưng vì đã có một lời hứa với tác giả nên tôi cố đọc, và thật bất ngờ, càng đọc lại càng thấy mình như nhập vào cái không gian và thời gian của lịch sử xa xưa ấy. Thì ra chọn "điệu cũ” lại chính là chủ ý của tác giả. Cái "điệu cũ” này như tái hiện lại những gì cần chân thực mà tác phẩm sẽ mang tới độc giả hôm nay. Cũng như Ngọc Hân đã học giọng điệu từ bản dịch "Chinh phụ ngâm” để viết nên áng thơ khóc chồng "Ai tư vãn” bất hủ, Vũ Đình Ninh học Nguyễn Du và học cả Ngọc Hân nữa. Cứ chậm rãi như thế, cứ miên man như thế và ngòi bút cũng nhiều khi linh hoạt đến thế…
Hai hàng văn võ cúi buồn
Vương Thung – mưu sĩ tìm phương sách hoà
Không ngờ trúng kế quân ngoa
Anh em – cái hố bất hoà thêm sâu
Có lẽ nhờ cái giọng kể linh hoạt này mà câu chuyện càng hồi càng hấp dẫn chăng?
Đúng vậy, lịch sử thời Tây Sơn hiện lên qua ngòi bút Vũ Đình Ninh thật sinh động và hấp dẫn. Từ cuộc khởi nghĩa của anh em Nguyễn Huệ đến cuộc phò Lê diệt Trịnh, thống nhất giang sơn với bao biến cố nội tình đều được thể hiện như một cuộc cách mạng long trời lở đất. Và rốt cuộc, sự thất bại của Tây Sơn trước Nguyễn Ánh là một bi kịch mà không chỉ một mình Ngọc Hân cảm thấy, mà chính lịch sử cũng sụt sùi:
Một bà tóc xõa ngang lưng
Ngồi ôm cửa ngục chờn vờn áo xiêm
Dường như ánh mắt dõi tìm
Chút hương trầm mặc cuối miền hư không
Truyện thơ khép lại bằng sự trả thù của Nguyễn Ánh với nhà Tây Sơn, và nỗi ai oán như theo ta mãi đến hôm nay.
Cám ơn Vũ Đình Ninh đã cho tôi được gặp lại lịch sử với bao thăng trầm của kiếp người.
Hà Nội tháng 7 năm 2009
N.T.T
N.T.T
Vài dòng tri âm về "TÂY SƠN AI TƯ VÃN TRUYỆN” của Vũ Đình Ninh
Lê Bá Duy (vanthoviet.com)
Tôi biết Vũ Đình Ninh gần 10 năm trước khi "Thời Văn” do Nguyễn Đăng Trình chủ biên, ra mắt bạn đọc từ những số đầu tiên. Vũ Đình Ninh và tôi thi thoảng ngồi cà phê với nhau trước khi chờ vào sinh hoạt CLB Văn học Xuân Diệu. Lúc ấy, anh có đọc tôi nghe vài bài thơ Đường, thơ lục bát nhưng không thật gây ấn tượng mấy. Tôi quý anh ở tấm lòng nhiệt tình, cởi mở và sự hiểu biết sâu rộng ở lĩnh vực văn học. Nên trong cuộc đàm đạo văn chương tôi luôn kính anh. Bẵng đi mấy năm không gặp, đùng một cái, tình cờ tôi đọc "Tây Sơn Ai tư vãn truyện” của anh - một truyện thơ dài 3256 câu bằng thể lục bát trên trang website của Hội Nhà văn Việt Nam. Thật bất ngờ! Ban đầu tôi nửa tin nửa ngờ không biết có ai trùng tên? Nhưng khi nhìn thấy hình anh trên bìa 1 tập thơ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Đó là Vũ Đình Ninh mà tôi quen biết và cũng từng cà phê trò chuyện với nhau trước đây….
Anh gửi tặng tôi tập thơ vào trung tuần tháng 8. 2009. Lẽ ra tôi được anh tặng sớm hơn nhưng lúc ấy tôi đang ở Đà Lạt tham gia Trại sáng tác do Hội VHNT Bình Định tổ chức. Sau đó công việc riêng cứ xoắn lấy nên gần tháng sau mới đọc tập thơ anh tặng. Định viết chút gì đáp lại tình cảm của anh, nhẩn nha mãi đến nay mới ghi lại vài dòng tri âm cùng anh.
Gát 3 bài viết cảm nhận đầu tập sách của Nguyễn Trọng Tạo, Trần Hinh, và Nguyễn Đăng Trình (tôi dành đọc sau vì không muốn những cảm nhận chi phối), tôi bị cuốn hút sau 56 câu thơ đầu tiên. Và đêm ấy tôi đã đọc một hơi hết truyện. Cách dẫn dắt tác giả ngay từ đầu truyện:
Bon chen làm kiếp con người
Có ai nghĩ đến nghiệp đời trớ trêu
Chữ thân chữ nghiệp duyên nhau
Thân hoa nghiệp bướm thân dâu nghiệp tằm
Xanh rì trong cõi mù tăm
Xôn xao trong cõi thăng trầm đỏ đen
Hoá công dựng một cây đèn
Thân người bóng lửa lan triền sử xanh
Bằng lối diễn đạt truyền thống như cụ Tiên Điền, Đồ Chiểu khi viết "Truyện Kiều”, Lục Vân Tiên. Vũ Đình Ninh dẫn nhập vào thời: Từ năm Trịnh Nguyễn phân tranh… để giới thiệu nhân vật chính của truyện:
Ngọc Hân công chúa mở lòng
Tuổi lên mười sáu rạng dòng hoàng gia…
Tôi đọc và đối chiếu với lối tả người của Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Du thiên tả ngoại hình và nội tâm để xây dựng tính cách nhân vật. Nguyễn Đình Chiểu chú trọng khai thác nhân vật qua tả hành động; còn Vũ Đình Ninh không chú trọng nhiều miêu tả ngoại hình, nội tâm Ngọc Hân: " Tấm thân tố nữ mượt mà/ Mượt mà dáng dấp lụa là mượt hơn…” Tác giả chú trọng nhiều về giấc mơ của Ngọc Hân trên đường đi lễ chùa ở núi Vu Sơn trong ngày Nguyên Tiêu. Chương 2-4 tác giả kể tả xen chút phẩm bình về Triều Nguyễn, về triều đại Tây Sơn. Mãi đến chương 5 ta mới gặp lại Ngọc Hân- tác giả bài thơ "Ai tư vãn” – qua cuộc Bắc chinh của Nguyễn Huệ và cuộc hôn nhân của nàng với Nguyễn Huệ.
Những nhân vật trong "Tây Sơn Ai tư vãn” phần lớn hiện lên dưới ngòi bút Vũ Đình Ninh khá rõ là khí phách và hành động. Có lẽ tác giả coi trọng nhân phẩm con người qua hành động việc làm hơn là ở việc miêu tả ngoại hình. Đọc một loạt câu thơ giới thiệu về ba anh em Tây Sơn và các tướng lĩnh: Vũ Văn Nhậm, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, …ta thấy mỗi người có sở trường riêng, biểu hiện riêng nhưng đều có nét chung là lý tưởng sống, chiến đấu, sát cánh cùng ba anh em Tây Sơn gây dựng cơ nghiệp phù Lê diệt Trịnh- thống nhất giang sơn…
Nhân vật trong "Tây Sơn Ai tư vãn truyện” chia hai tuyến: chính diện và phản diện. Vũ Đình Ninh khai thác nhiều ở nhân vật chính diện. Anh chú trọng xây dựng tính cách nhân vật qua hành động trượng nghĩa: Bùi Thị Xuân khí phách hiên ngang, không chịu khuất phục kẻ thù; tấm lòng vị tha nhân ái, lấy đức thu phục nhân tâm, trọng nghĩa khinh tài, thà chết bảo vệ chính nghĩa, tiết hạnh…Đối với nhân vật phản diện tác giả chú trọng khá kỹ về hành động trả thù của Nguyễn Ánh đối với nhà Tây Sơn; đặc biệt là vợ chồng ân nhân từng cứu mình - Bùi Thị Xuân – với quan niệm "thà giết lầm còn hơn bỏ sót” Khai thác chi tiết này, anh đã làm rõ bản chất và tâm địa độc ác của Nguyễn Ánh. Mặt khác, qua đó cái ác, cái thiện cũng dần phơi bày. Tác giả khai thác khá triệt để những gì có thể khai thác…
Đọc một mạch và ghi lại cảm xúc ban đầu khi tiếp nhận tác phẩm, tôi thật sự kính phục và quý anh ở tấm lòng hướng về tiền nhân, ở thái độ việc làm "ôn cố tri tân”, ở tinh thần tôn trọng cái nền tảng tốt đẹp phẩm giá con người. Dù cho lối cấu trúc, thể thơ không mới (tất nhiên là chủ ý của tác giả) nhưng tôi cho rằng đây là một truyện thơ khá thành công của anh, giúp cho nhiều bạn đọc yêu văn học và lịch sử nước nhà hiểu hơn về một triều đại bi thương mà hùng tráng, về những con người đã một thời lừng lẫy, lưu danh sử sách muôn đời.
Vài dòng ghi nhận không thể nói hết cái hay mà tác giả gửi gắm trong "đứa con tinh thần” của anh vì đối với một tác phẩm "dài hơi” như "Tây Sơn Ai tư vãn truyện” khó có ngôn từ diễn tả, cần có thời gian nghiền ngẫm, nhưng đó là sự tri âm của một độc giả với tác giả qua tác phẩm.
Tôi mừng cho sự thành công của anh. Sức sống của truyện thơ này còn chờ thời gian và bạn đọc "thẩm thấu”, chiêm nghiệm! Hy vọng rằng những truyện thơ tiếp theo của anh sẽ có những bứt phá mới và thu hút bạn đọc nhiều hơn!
Lê Bá Duy (vanthoviet.com)
Tôi biết Vũ Đình Ninh gần 10 năm trước khi "Thời Văn” do Nguyễn Đăng Trình chủ biên, ra mắt bạn đọc từ những số đầu tiên. Vũ Đình Ninh và tôi thi thoảng ngồi cà phê với nhau trước khi chờ vào sinh hoạt CLB Văn học Xuân Diệu. Lúc ấy, anh có đọc tôi nghe vài bài thơ Đường, thơ lục bát nhưng không thật gây ấn tượng mấy. Tôi quý anh ở tấm lòng nhiệt tình, cởi mở và sự hiểu biết sâu rộng ở lĩnh vực văn học. Nên trong cuộc đàm đạo văn chương tôi luôn kính anh. Bẵng đi mấy năm không gặp, đùng một cái, tình cờ tôi đọc "Tây Sơn Ai tư vãn truyện” của anh - một truyện thơ dài 3256 câu bằng thể lục bát trên trang website của Hội Nhà văn Việt Nam. Thật bất ngờ! Ban đầu tôi nửa tin nửa ngờ không biết có ai trùng tên? Nhưng khi nhìn thấy hình anh trên bìa 1 tập thơ thì không còn nghi ngờ gì nữa. Đó là Vũ Đình Ninh mà tôi quen biết và cũng từng cà phê trò chuyện với nhau trước đây….
Anh gửi tặng tôi tập thơ vào trung tuần tháng 8. 2009. Lẽ ra tôi được anh tặng sớm hơn nhưng lúc ấy tôi đang ở Đà Lạt tham gia Trại sáng tác do Hội VHNT Bình Định tổ chức. Sau đó công việc riêng cứ xoắn lấy nên gần tháng sau mới đọc tập thơ anh tặng. Định viết chút gì đáp lại tình cảm của anh, nhẩn nha mãi đến nay mới ghi lại vài dòng tri âm cùng anh.
Gát 3 bài viết cảm nhận đầu tập sách của Nguyễn Trọng Tạo, Trần Hinh, và Nguyễn Đăng Trình (tôi dành đọc sau vì không muốn những cảm nhận chi phối), tôi bị cuốn hút sau 56 câu thơ đầu tiên. Và đêm ấy tôi đã đọc một hơi hết truyện. Cách dẫn dắt tác giả ngay từ đầu truyện:
Bon chen làm kiếp con người
Có ai nghĩ đến nghiệp đời trớ trêu
Chữ thân chữ nghiệp duyên nhau
Thân hoa nghiệp bướm thân dâu nghiệp tằm
Xanh rì trong cõi mù tăm
Xôn xao trong cõi thăng trầm đỏ đen
Hoá công dựng một cây đèn
Thân người bóng lửa lan triền sử xanh
Bằng lối diễn đạt truyền thống như cụ Tiên Điền, Đồ Chiểu khi viết "Truyện Kiều”, Lục Vân Tiên. Vũ Đình Ninh dẫn nhập vào thời: Từ năm Trịnh Nguyễn phân tranh… để giới thiệu nhân vật chính của truyện:
Ngọc Hân công chúa mở lòng
Tuổi lên mười sáu rạng dòng hoàng gia…
Tôi đọc và đối chiếu với lối tả người của Nguyễn Du và Nguyễn Đình Chiểu. Nguyễn Du thiên tả ngoại hình và nội tâm để xây dựng tính cách nhân vật. Nguyễn Đình Chiểu chú trọng khai thác nhân vật qua tả hành động; còn Vũ Đình Ninh không chú trọng nhiều miêu tả ngoại hình, nội tâm Ngọc Hân: " Tấm thân tố nữ mượt mà/ Mượt mà dáng dấp lụa là mượt hơn…” Tác giả chú trọng nhiều về giấc mơ của Ngọc Hân trên đường đi lễ chùa ở núi Vu Sơn trong ngày Nguyên Tiêu. Chương 2-4 tác giả kể tả xen chút phẩm bình về Triều Nguyễn, về triều đại Tây Sơn. Mãi đến chương 5 ta mới gặp lại Ngọc Hân- tác giả bài thơ "Ai tư vãn” – qua cuộc Bắc chinh của Nguyễn Huệ và cuộc hôn nhân của nàng với Nguyễn Huệ.
Những nhân vật trong "Tây Sơn Ai tư vãn” phần lớn hiện lên dưới ngòi bút Vũ Đình Ninh khá rõ là khí phách và hành động. Có lẽ tác giả coi trọng nhân phẩm con người qua hành động việc làm hơn là ở việc miêu tả ngoại hình. Đọc một loạt câu thơ giới thiệu về ba anh em Tây Sơn và các tướng lĩnh: Vũ Văn Nhậm, Trần Quang Diệu, Bùi Thị Xuân, …ta thấy mỗi người có sở trường riêng, biểu hiện riêng nhưng đều có nét chung là lý tưởng sống, chiến đấu, sát cánh cùng ba anh em Tây Sơn gây dựng cơ nghiệp phù Lê diệt Trịnh- thống nhất giang sơn…
Nhân vật trong "Tây Sơn Ai tư vãn truyện” chia hai tuyến: chính diện và phản diện. Vũ Đình Ninh khai thác nhiều ở nhân vật chính diện. Anh chú trọng xây dựng tính cách nhân vật qua hành động trượng nghĩa: Bùi Thị Xuân khí phách hiên ngang, không chịu khuất phục kẻ thù; tấm lòng vị tha nhân ái, lấy đức thu phục nhân tâm, trọng nghĩa khinh tài, thà chết bảo vệ chính nghĩa, tiết hạnh…Đối với nhân vật phản diện tác giả chú trọng khá kỹ về hành động trả thù của Nguyễn Ánh đối với nhà Tây Sơn; đặc biệt là vợ chồng ân nhân từng cứu mình - Bùi Thị Xuân – với quan niệm "thà giết lầm còn hơn bỏ sót” Khai thác chi tiết này, anh đã làm rõ bản chất và tâm địa độc ác của Nguyễn Ánh. Mặt khác, qua đó cái ác, cái thiện cũng dần phơi bày. Tác giả khai thác khá triệt để những gì có thể khai thác…
Đọc một mạch và ghi lại cảm xúc ban đầu khi tiếp nhận tác phẩm, tôi thật sự kính phục và quý anh ở tấm lòng hướng về tiền nhân, ở thái độ việc làm "ôn cố tri tân”, ở tinh thần tôn trọng cái nền tảng tốt đẹp phẩm giá con người. Dù cho lối cấu trúc, thể thơ không mới (tất nhiên là chủ ý của tác giả) nhưng tôi cho rằng đây là một truyện thơ khá thành công của anh, giúp cho nhiều bạn đọc yêu văn học và lịch sử nước nhà hiểu hơn về một triều đại bi thương mà hùng tráng, về những con người đã một thời lừng lẫy, lưu danh sử sách muôn đời.
Vài dòng ghi nhận không thể nói hết cái hay mà tác giả gửi gắm trong "đứa con tinh thần” của anh vì đối với một tác phẩm "dài hơi” như "Tây Sơn Ai tư vãn truyện” khó có ngôn từ diễn tả, cần có thời gian nghiền ngẫm, nhưng đó là sự tri âm của một độc giả với tác giả qua tác phẩm.
Tôi mừng cho sự thành công của anh. Sức sống của truyện thơ này còn chờ thời gian và bạn đọc "thẩm thấu”, chiêm nghiệm! Hy vọng rằng những truyện thơ tiếp theo của anh sẽ có những bứt phá mới và thu hút bạn đọc nhiều hơn!
L.B.D
LỜI BÀN TÁC PHẨM "TÂY SƠN AI TƯ VÃN TRUYỆN"
Trần Hinh (Nukeviet)
Quen biết Vũ Đình Ninh cũng đã mười năm. Vũ Đình Ninh nhỏ hơn tôi 17 tuổi, có biết chút ít chữ Hán nên tôi gọi Vũ Đình Ninh là Vũ đệ - một cách gọi thân mật pha chút dí dỏm của tôi. Vũ Đình Ninh là con người thích đùa, hay trêu chọc bạn bè bằng những tiểu phẩm ứng tác tại chỗ. Văn thơ Vũ Đình Ninh đã viết gồm cả truyện ngắn, truyện dài và thơ viết ở nhiều thể loại có cả thơ Đường luật, nhưng nhiều nhất là thơ tự do với nhiều bài rất hay ca ngợi cỏ cây hoa lá, ong bướm gió trăng.
Âu đó cũng là thơ ca ngợi thiên nhiên cả đấy thôi. Thực ra con người hay một bộ phận nào đấy của con người cũng đều là một vi thể cấu thành thiên nhiên. Nguyễn Du chẳng đã từng hiểu như vậy đó sao:
"Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên".
Thơ Vũ Đình Ninh đậm đặc tính thiên nhiên ấy.
Văn và thơ của Vũ Đình Ninh đã viết cũng không ít và viết để đọc cho bạn bè nghe chơi, không bao giờ nghĩ đến việc in thơ in văn thành tập này tập nọ. Đùng một cái Vũ Đình Ninh cho ra mắt độc giả tập truyện dài đến 3.256 câu thơ lục bát mang tên "Tây Sơn ai tư vãn truyện" có phụ đề là "Đoạn trường vi thanh" được viết chỉ trong 45 ngày. Đành rằng sau đó cũng có tu sửa một số từ ngữ chứ không phải tu sửa cốt truyện. Tôi là người chứng kiến từ đầu đến cuối sự ra đời của tập truyện thơ này. Khi Vũ Đình Ninh viết đoạn đầu đã đọc qua điện thoại cho tôi nghe 720 câu. Một vài lần sau đó Vũ Đình Ninh lại đọc cho tôi nghe những đoạn mà Vũ Đình Ninh đắc ý. Nhưng nghe thì nghe, chứ chưa bao giờ tôi khen hoặc chê một cách vội vàng ngoài một lời khuyên: Ninh hãy tiếp tục viết đi. Với một tập thơ dày như thế làm sao tránh khỏi những câu thơ còn mỏng. Nhưng ở đây tôi không bàn đến việc dày hay mỏng của từng câu thơ và điều đó còn phải chờ sự đánh giá của độc giả. Riêng tôi chỉ xin nói đến sự kỳ lạ đã thôi thúc Vũ Đình Ninh cho ra đời tập "Tây Sơn ai tư vãn truyện" được viết từ sau những giấc mơ.
Số là, ngày 20 tháng 3 vừa rồi Vũ Đình Ninh đến dự sinh nhật tôi, có kể cho tôi nghe giấc mơ của Vũ Đình Ninh từ hai ngày trước đó, tức ngày 18 tháng 3 nhằm bữa thứ tư ngày nhâm tuất 22 tháng 02 năm Kỷ Sửu 2009. Rằng, tự nhiên sáng sớm hôm đó cao hứng thế nào không biết mà một mình một xe Vũ Đình Ninh phóng thẳng đến một nơi mà mình chưa từng đến. Nơi đó chính là Núi Bà có chùa Linh Phong - nơi danh nhân Đào Tấn đã đến gửi thân sau khi giũ áo từ quan và cũng là nơi được nhân dân sùng kính. Đến nơi, Vũ Đình Ninh dựng xe ở chân núi, rồi lững thững một mình leo lên núi ngắm nhìn non nước trời mây mà không hề hay biết ở tầng núi cao hơn có chùa Linh Phong. Chưa dạo núi được bao nhiêu, mới hơn 9 giờ sáng mà Vũ Đình Ninh đã thấy mệt phải dựa lưng vào một gốc cây để tạm nghỉ thì giấc ngủ ập đến lúc nào không biết. Khi thức dậy đã 19 giờ kém 15 phút, màn đêm đã phủ kín Núi Bà. Vũ Đình Ninh hoảng hốt gọi điện thoại đến Khổng Vĩnh Nguyên hỏi chừng lối ra khỏi núi. Vũ Đình Ninh ra về mà lòng thấy bàng hoàng, lâng lâng và nhớ như in giấc mơ kéo dài hơn 9 tiếng đồng hồ tại gốc cây.
Giấc mơ rằng: Vũ Đình Ninh đang ngồi có một người đàn bà xinh đẹp tuổi chưa tới bốn mươi, đến vỗ vai nói rằng: "Ông là Vũ Văn Nhậm sao lại ngồi đây". Vũ Đình Ninh cãi lại: "Tôi là Vũ Đình Ninh chứ không phải Vũ Văn Nhậm", thế rồi bà ta biến mất. Lại một ông tuổi chừng hơn bốn mươi dáng người cao, gầy đến dắt Vũ Đình Ninh đi như bay đến nhiều nơi, gặp rất nhiều người. Giấc mơ đã gieo vào tâm thức Vũ Đình Ninh rằng những nơi đã đến là địa danh ghi dấu những chiến công hiển hách của triều đại Tây Sơn, những người đã gặp trông rất oai phong lẫm liệt hình như đó là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và những danh tướng thời Tây Sơn. Sau giấc mơ, Vũ Đình Ninh vẫn còn thấy những hình ảnh trong mơ cứ chờn vờn trước mặt như một lời mách bảo, khuyên nhũ Vũ Đình Ninh hãy viết nhanh bản trường ca về những sự tích bi hùng của triều đại Tây Sơn.
Ngày 21 tháng 3 tức ngày 25 tháng 02 âm lịch ngày giỗ thân phụ Vũ Đình Ninh. Sáng ngày 22 tháng 3, Vũ Đình Ninh đến nhà bạn là Vũ Đình Huy kể chuyện giấc mơ ở Núi Bà, Huy nghe chẳng nói gì, lại hết lời ca ngợi tập thơ "Đoạn trường vô thanh" của Phạm Thiên Thư mà Huy vừa mới đem về từ thành phố Hồ Chí Minh. Như có được sự gợi ý vô hình nào đó, Vũ Đình Ninh buộc miệng nói với Huy rằng mình sẽ viết "Đoạn trường vi thanh" hàng trăm trang cho mà coi. Vũ Đình Ninh ra về thì chiều đó cụ Bảo Hồ đến chơi và sẵn lòng cho Vũ Đình Ninh mượn tất cả sách sử nói về triều đại Tây Sơn, trong đó có quyển: "Tây Sơn bi hùng truyện". Nghe nói quyền sách này của Hồ Hữu Tường (đã qua đời) mà sách được in lại đứng tên tác giả Lê Đình Danh. Thôi thì tên tác giả là ai xin gác lại một bên. Vấn đề là quyển sách ấy có nhiều cứ liệu xưa nay hiếm mà Vũ Đình Ninh đã tham khảo cộng với những gì đã thấy trong giấc mơ cùng với những hiểu biết vốn có về nhà Tây Sơn mà Vũ Đình Ninh đã viết nên tập "Tây Sơn ai tư vãn truyện" bắt đầu từ ngày 27 tháng 3 năm 2009 sau giấc mơ ở Núi Bà chín ngày. Trước máy vi tính, Vũ Đình Ninh viết như tuôn trào, câu trước gọi câu sau ra ngay không gì có thể cản ngăn được. Ngay cả người vợ đêm đêm cũng để cho Vũ Đình Ninh ngồi bên máy vi tính chứ không phải để đi ngủ sớm với mình như thường lệ. Vũ Đình Ninh viết một mạch bốn mươi bốn ngày liền thì bị khựng lại, ngồi ngoẹo đầu trên ghế thiêm thiếp ngủ thì mơ thấy một thiếu phụ xinh đẹp tóc rối bời và dài đến ngang lưng, đập đầu vào ngục máu chảy ràng rụa mà vẫn vương vương một nụ cười kiêu hãnh cho đến khi tắc thở. Vũ Đình Ninh cho rằng đó là cái chết của Ngọc Hân công chúa trong ngục thất, chứ không phải bà đã tìm đường trốn về bắc sống cuộc đời lầm lũi và chết ở tuổi già như có sách đã nói. Giấc mơ này đã giúp Vũ Đình Ninh viết trôi chảy ở đoạn kết thúc tập truyện chỉ trong một ngày sau đó - ngày thứ bốn mươi lăm.
Kỳ lạ thay, như có ai đã xuôi Vũ Đình Ninh một mình một xe từ sáng sớm đi thẳng đến một nơi mà mình chưa biết. Rồi ai đã khiến Vũ Đình Ninh đến tựa lưng vào một gốc cây như tạm gửi xác ở đấy. Đúng là chỉ có thể gửi xác vào một nơi hoang vắng như thế, thì phần xác mới được yên không bị quấy rầy khi phần hồn chu du trong hơn chín tiếng đồng hồ để nhận biết những hình ảnh của quá khứ thuộc không gian và thời gian tồn tại của nhà Tây Sơn.
Kỳ lạ thay, như có ai đó đã xuôi bạn bè tự khai báo những quyển sử sách của mình có và sẵn lòng cho Vũ Đình Ninh mượn. Vì vậy mà Vũ Đình Ninh không hề mất thời gian để sưu tầm tài liệu tham khảo trước khi viết.
Cũng khó mà giải thích tại sao trong suốt bốn mươi lăm ngày Vũ Đình Ninh ngồi viết thì bà con, bạn bà không một ai đến thăm hỏi hay vui chơi với Vũ Đình Ninh. Điều đó đã tạo được một không gian yên tĩnh, không bị phân tâm để suy nghĩ, để cảm xúc được liền mạch khi viết. Điều có thực đó là sự may mắn ngẫu nhiên hay do một quyền năng vô hình đã sắp đặt như vậy. Thật có trời mà biết.
Trong tập truyện có nhiều hư cấu rất hay không thể trích dẫn hết được. Tôi chỉ xin trích dẫn một hư cấu nói về cái chết của Vũ Văn Nhậm được suy diễn từ câu nói của người đàn bà trong mơ: "Ông là Vũ Văn Nhậm sao lại ngồi đây". Vũ Đình Ninh nghĩ rằng mình không thể giống một danh tướng tài ba lừng lẫy được. Vả chăng có giống nhau là giống ở tính hiếu sắc. Ừ, mà xưa nay những bậc tài hoa yên hùng chẳng ai lại không hiếu sắc và Vũ Văn Nhậm chắc chắn là một con người như thế. Từ suy diễn đó, Vũ Đình Ninh hư cấu một Vũ Văn Nhậm trong khi tạm lắng việc binh đao, lại sống xa vợ, đã nhiều lúc rời tổng hành dinh dang díu với đám kỹ nữ, bỏ bê việc quân binh đã gây nên những điều tiếng không hay ho gì cho một vị tư lệnh tối cao của Tây Sơn ở đất Bắc Hà. Biết Vũ Văn Nhậm sa đà đến mức ấy, Nguyễn Huệ lập tức ra Bắc Hà xử trảm Vũ Văn Nhậm. Chuyện hư cấu này nói rõ một điều là Vũ Văn Nhậm đã chết vì hoa thơm cỏ lạ chứ không phải chết vì tội bất trung như Nguyễn Hữu Chỉnh. Và hư cấu này còn nói lên rằng Nguyễn Huệ vì phải giữ nghiêm quân pháp chứ không phải vì ganh ghét tài năng mà giết Vũ Văn Nhậm như sách sử đã nói oan cho Nguyễn Huệ.
Lịch sử nhà Tây Sơn là lịch sử của những sự tích anh hùng và cũng có không ít những chuyện bi thương. Việc trả thù rất dã man và hèn hạ của Gia Long bày ra ở Phú Xuân, không thấy có ai trong khi bị hành quyết lại xin đầu hàng hay tỏ ra khiếp sợ trước cảnh đầu rơi máu chảy, thịt nát xương tan và nỗi đau thương đến ngút trời. Đó chính là đỉnh điểm của tính hùng và tính bi của từng người bị hành quyết cũng như của triều đại Tây Sơn ở giờ phút cuối cùng. Cái hùng và cái bi như ăn ở với nhau trong suốt lịch sử triều đại Tây Sơn. Và dường như cái bi đọng lại lâu hơn, đọng lại âm ỉ như lấn át cái hùng. Có phải vì như vậy chăng, mà tựa đề của tác phẩm chỉ gồm những ngôn từ nói lên cái bi: "Ai tư vãn" trong tựa đề "Tây Sơn ai tư vãn truyện" và còn nhấn mạnh thêm tính bi ở phụ đề "Đoạn trường vi thanh" là nỗi đau kết thành chuỗi gồm toàn những từ ngữ nói lên cái bi.
Trong tác phẩm "Tây Sơn ai tư vãn truyện" có rất nhiều chuyện hư cấu.Những chuyện gọi là hư cấu đó xem ra cũng có tính hợp lý khó mà bài bác. Và biết đâu khi chúng ta coi đó là chuyện hư mà lại là chuyện thực ở cõi hư - cái cõi từng có thực đã lùi xa chúng ta từ hơn hai thế kỷ. Nếu như Nguyễn Du nói đúng: "Thác là thể phách, còn là tinh anh" thì giấc mơ của Vũ Đình Ninh là do phần "TINH ANH" tức linh hồn của những người có liên quan mật thiết với nhà Tây Sơn lúc bấy giờ đã báo mộng cho Vũ Đình Ninh. Hoặc nói một cách khác, Vũ Đình Ninh được thế giới tâm linh sử dụng như một trạm thu phát tín hiệu và chỉ có một số người nào đó mới được sử dụng làm trạm thu một khi có khả năng phát lại tín hiệu thu được đó thành ngôn ngữ của cõi đời. Trạm thu phát tín hiệu Vũ Đình Ninh đã thu tín hiệu phát từ không gian trong hơn chín giờ và đã phát lại tín hiệu đó liên tục trong bốn mươi lăm ngày tạo thành tác phẩm "Tây Sơn ai tư vãn truyện".
"Tây Sơn ai tư vãn truyện" là một tác phẩm văn học nói về lịch sử triều đại Tây Sơn được diễn đạt bằng thơ lục bát, đã có những đoạn thơ hay, nhiều câu thơ hay. Nhưng vì dùng thơ để nói sử nên tính sử thi đã bao trùm lên toàn bộ tác phẩm. Điều đó thật đáng quý biết bao.
Trần Hinh (Nukeviet)
Quen biết Vũ Đình Ninh cũng đã mười năm. Vũ Đình Ninh nhỏ hơn tôi 17 tuổi, có biết chút ít chữ Hán nên tôi gọi Vũ Đình Ninh là Vũ đệ - một cách gọi thân mật pha chút dí dỏm của tôi. Vũ Đình Ninh là con người thích đùa, hay trêu chọc bạn bè bằng những tiểu phẩm ứng tác tại chỗ. Văn thơ Vũ Đình Ninh đã viết gồm cả truyện ngắn, truyện dài và thơ viết ở nhiều thể loại có cả thơ Đường luật, nhưng nhiều nhất là thơ tự do với nhiều bài rất hay ca ngợi cỏ cây hoa lá, ong bướm gió trăng.
Âu đó cũng là thơ ca ngợi thiên nhiên cả đấy thôi. Thực ra con người hay một bộ phận nào đấy của con người cũng đều là một vi thể cấu thành thiên nhiên. Nguyễn Du chẳng đã từng hiểu như vậy đó sao:
"Rõ ràng trong ngọc trắng ngà
Dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên".
Thơ Vũ Đình Ninh đậm đặc tính thiên nhiên ấy.
Văn và thơ của Vũ Đình Ninh đã viết cũng không ít và viết để đọc cho bạn bè nghe chơi, không bao giờ nghĩ đến việc in thơ in văn thành tập này tập nọ. Đùng một cái Vũ Đình Ninh cho ra mắt độc giả tập truyện dài đến 3.256 câu thơ lục bát mang tên "Tây Sơn ai tư vãn truyện" có phụ đề là "Đoạn trường vi thanh" được viết chỉ trong 45 ngày. Đành rằng sau đó cũng có tu sửa một số từ ngữ chứ không phải tu sửa cốt truyện. Tôi là người chứng kiến từ đầu đến cuối sự ra đời của tập truyện thơ này. Khi Vũ Đình Ninh viết đoạn đầu đã đọc qua điện thoại cho tôi nghe 720 câu. Một vài lần sau đó Vũ Đình Ninh lại đọc cho tôi nghe những đoạn mà Vũ Đình Ninh đắc ý. Nhưng nghe thì nghe, chứ chưa bao giờ tôi khen hoặc chê một cách vội vàng ngoài một lời khuyên: Ninh hãy tiếp tục viết đi. Với một tập thơ dày như thế làm sao tránh khỏi những câu thơ còn mỏng. Nhưng ở đây tôi không bàn đến việc dày hay mỏng của từng câu thơ và điều đó còn phải chờ sự đánh giá của độc giả. Riêng tôi chỉ xin nói đến sự kỳ lạ đã thôi thúc Vũ Đình Ninh cho ra đời tập "Tây Sơn ai tư vãn truyện" được viết từ sau những giấc mơ.
Số là, ngày 20 tháng 3 vừa rồi Vũ Đình Ninh đến dự sinh nhật tôi, có kể cho tôi nghe giấc mơ của Vũ Đình Ninh từ hai ngày trước đó, tức ngày 18 tháng 3 nhằm bữa thứ tư ngày nhâm tuất 22 tháng 02 năm Kỷ Sửu 2009. Rằng, tự nhiên sáng sớm hôm đó cao hứng thế nào không biết mà một mình một xe Vũ Đình Ninh phóng thẳng đến một nơi mà mình chưa từng đến. Nơi đó chính là Núi Bà có chùa Linh Phong - nơi danh nhân Đào Tấn đã đến gửi thân sau khi giũ áo từ quan và cũng là nơi được nhân dân sùng kính. Đến nơi, Vũ Đình Ninh dựng xe ở chân núi, rồi lững thững một mình leo lên núi ngắm nhìn non nước trời mây mà không hề hay biết ở tầng núi cao hơn có chùa Linh Phong. Chưa dạo núi được bao nhiêu, mới hơn 9 giờ sáng mà Vũ Đình Ninh đã thấy mệt phải dựa lưng vào một gốc cây để tạm nghỉ thì giấc ngủ ập đến lúc nào không biết. Khi thức dậy đã 19 giờ kém 15 phút, màn đêm đã phủ kín Núi Bà. Vũ Đình Ninh hoảng hốt gọi điện thoại đến Khổng Vĩnh Nguyên hỏi chừng lối ra khỏi núi. Vũ Đình Ninh ra về mà lòng thấy bàng hoàng, lâng lâng và nhớ như in giấc mơ kéo dài hơn 9 tiếng đồng hồ tại gốc cây.
Giấc mơ rằng: Vũ Đình Ninh đang ngồi có một người đàn bà xinh đẹp tuổi chưa tới bốn mươi, đến vỗ vai nói rằng: "Ông là Vũ Văn Nhậm sao lại ngồi đây". Vũ Đình Ninh cãi lại: "Tôi là Vũ Đình Ninh chứ không phải Vũ Văn Nhậm", thế rồi bà ta biến mất. Lại một ông tuổi chừng hơn bốn mươi dáng người cao, gầy đến dắt Vũ Đình Ninh đi như bay đến nhiều nơi, gặp rất nhiều người. Giấc mơ đã gieo vào tâm thức Vũ Đình Ninh rằng những nơi đã đến là địa danh ghi dấu những chiến công hiển hách của triều đại Tây Sơn, những người đã gặp trông rất oai phong lẫm liệt hình như đó là Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ và những danh tướng thời Tây Sơn. Sau giấc mơ, Vũ Đình Ninh vẫn còn thấy những hình ảnh trong mơ cứ chờn vờn trước mặt như một lời mách bảo, khuyên nhũ Vũ Đình Ninh hãy viết nhanh bản trường ca về những sự tích bi hùng của triều đại Tây Sơn.
Ngày 21 tháng 3 tức ngày 25 tháng 02 âm lịch ngày giỗ thân phụ Vũ Đình Ninh. Sáng ngày 22 tháng 3, Vũ Đình Ninh đến nhà bạn là Vũ Đình Huy kể chuyện giấc mơ ở Núi Bà, Huy nghe chẳng nói gì, lại hết lời ca ngợi tập thơ "Đoạn trường vô thanh" của Phạm Thiên Thư mà Huy vừa mới đem về từ thành phố Hồ Chí Minh. Như có được sự gợi ý vô hình nào đó, Vũ Đình Ninh buộc miệng nói với Huy rằng mình sẽ viết "Đoạn trường vi thanh" hàng trăm trang cho mà coi. Vũ Đình Ninh ra về thì chiều đó cụ Bảo Hồ đến chơi và sẵn lòng cho Vũ Đình Ninh mượn tất cả sách sử nói về triều đại Tây Sơn, trong đó có quyển: "Tây Sơn bi hùng truyện". Nghe nói quyền sách này của Hồ Hữu Tường (đã qua đời) mà sách được in lại đứng tên tác giả Lê Đình Danh. Thôi thì tên tác giả là ai xin gác lại một bên. Vấn đề là quyển sách ấy có nhiều cứ liệu xưa nay hiếm mà Vũ Đình Ninh đã tham khảo cộng với những gì đã thấy trong giấc mơ cùng với những hiểu biết vốn có về nhà Tây Sơn mà Vũ Đình Ninh đã viết nên tập "Tây Sơn ai tư vãn truyện" bắt đầu từ ngày 27 tháng 3 năm 2009 sau giấc mơ ở Núi Bà chín ngày. Trước máy vi tính, Vũ Đình Ninh viết như tuôn trào, câu trước gọi câu sau ra ngay không gì có thể cản ngăn được. Ngay cả người vợ đêm đêm cũng để cho Vũ Đình Ninh ngồi bên máy vi tính chứ không phải để đi ngủ sớm với mình như thường lệ. Vũ Đình Ninh viết một mạch bốn mươi bốn ngày liền thì bị khựng lại, ngồi ngoẹo đầu trên ghế thiêm thiếp ngủ thì mơ thấy một thiếu phụ xinh đẹp tóc rối bời và dài đến ngang lưng, đập đầu vào ngục máu chảy ràng rụa mà vẫn vương vương một nụ cười kiêu hãnh cho đến khi tắc thở. Vũ Đình Ninh cho rằng đó là cái chết của Ngọc Hân công chúa trong ngục thất, chứ không phải bà đã tìm đường trốn về bắc sống cuộc đời lầm lũi và chết ở tuổi già như có sách đã nói. Giấc mơ này đã giúp Vũ Đình Ninh viết trôi chảy ở đoạn kết thúc tập truyện chỉ trong một ngày sau đó - ngày thứ bốn mươi lăm.
Kỳ lạ thay, như có ai đã xuôi Vũ Đình Ninh một mình một xe từ sáng sớm đi thẳng đến một nơi mà mình chưa biết. Rồi ai đã khiến Vũ Đình Ninh đến tựa lưng vào một gốc cây như tạm gửi xác ở đấy. Đúng là chỉ có thể gửi xác vào một nơi hoang vắng như thế, thì phần xác mới được yên không bị quấy rầy khi phần hồn chu du trong hơn chín tiếng đồng hồ để nhận biết những hình ảnh của quá khứ thuộc không gian và thời gian tồn tại của nhà Tây Sơn.
Kỳ lạ thay, như có ai đó đã xuôi bạn bè tự khai báo những quyển sử sách của mình có và sẵn lòng cho Vũ Đình Ninh mượn. Vì vậy mà Vũ Đình Ninh không hề mất thời gian để sưu tầm tài liệu tham khảo trước khi viết.
Cũng khó mà giải thích tại sao trong suốt bốn mươi lăm ngày Vũ Đình Ninh ngồi viết thì bà con, bạn bà không một ai đến thăm hỏi hay vui chơi với Vũ Đình Ninh. Điều đó đã tạo được một không gian yên tĩnh, không bị phân tâm để suy nghĩ, để cảm xúc được liền mạch khi viết. Điều có thực đó là sự may mắn ngẫu nhiên hay do một quyền năng vô hình đã sắp đặt như vậy. Thật có trời mà biết.
Trong tập truyện có nhiều hư cấu rất hay không thể trích dẫn hết được. Tôi chỉ xin trích dẫn một hư cấu nói về cái chết của Vũ Văn Nhậm được suy diễn từ câu nói của người đàn bà trong mơ: "Ông là Vũ Văn Nhậm sao lại ngồi đây". Vũ Đình Ninh nghĩ rằng mình không thể giống một danh tướng tài ba lừng lẫy được. Vả chăng có giống nhau là giống ở tính hiếu sắc. Ừ, mà xưa nay những bậc tài hoa yên hùng chẳng ai lại không hiếu sắc và Vũ Văn Nhậm chắc chắn là một con người như thế. Từ suy diễn đó, Vũ Đình Ninh hư cấu một Vũ Văn Nhậm trong khi tạm lắng việc binh đao, lại sống xa vợ, đã nhiều lúc rời tổng hành dinh dang díu với đám kỹ nữ, bỏ bê việc quân binh đã gây nên những điều tiếng không hay ho gì cho một vị tư lệnh tối cao của Tây Sơn ở đất Bắc Hà. Biết Vũ Văn Nhậm sa đà đến mức ấy, Nguyễn Huệ lập tức ra Bắc Hà xử trảm Vũ Văn Nhậm. Chuyện hư cấu này nói rõ một điều là Vũ Văn Nhậm đã chết vì hoa thơm cỏ lạ chứ không phải chết vì tội bất trung như Nguyễn Hữu Chỉnh. Và hư cấu này còn nói lên rằng Nguyễn Huệ vì phải giữ nghiêm quân pháp chứ không phải vì ganh ghét tài năng mà giết Vũ Văn Nhậm như sách sử đã nói oan cho Nguyễn Huệ.
Lịch sử nhà Tây Sơn là lịch sử của những sự tích anh hùng và cũng có không ít những chuyện bi thương. Việc trả thù rất dã man và hèn hạ của Gia Long bày ra ở Phú Xuân, không thấy có ai trong khi bị hành quyết lại xin đầu hàng hay tỏ ra khiếp sợ trước cảnh đầu rơi máu chảy, thịt nát xương tan và nỗi đau thương đến ngút trời. Đó chính là đỉnh điểm của tính hùng và tính bi của từng người bị hành quyết cũng như của triều đại Tây Sơn ở giờ phút cuối cùng. Cái hùng và cái bi như ăn ở với nhau trong suốt lịch sử triều đại Tây Sơn. Và dường như cái bi đọng lại lâu hơn, đọng lại âm ỉ như lấn át cái hùng. Có phải vì như vậy chăng, mà tựa đề của tác phẩm chỉ gồm những ngôn từ nói lên cái bi: "Ai tư vãn" trong tựa đề "Tây Sơn ai tư vãn truyện" và còn nhấn mạnh thêm tính bi ở phụ đề "Đoạn trường vi thanh" là nỗi đau kết thành chuỗi gồm toàn những từ ngữ nói lên cái bi.
Trong tác phẩm "Tây Sơn ai tư vãn truyện" có rất nhiều chuyện hư cấu.Những chuyện gọi là hư cấu đó xem ra cũng có tính hợp lý khó mà bài bác. Và biết đâu khi chúng ta coi đó là chuyện hư mà lại là chuyện thực ở cõi hư - cái cõi từng có thực đã lùi xa chúng ta từ hơn hai thế kỷ. Nếu như Nguyễn Du nói đúng: "Thác là thể phách, còn là tinh anh" thì giấc mơ của Vũ Đình Ninh là do phần "TINH ANH" tức linh hồn của những người có liên quan mật thiết với nhà Tây Sơn lúc bấy giờ đã báo mộng cho Vũ Đình Ninh. Hoặc nói một cách khác, Vũ Đình Ninh được thế giới tâm linh sử dụng như một trạm thu phát tín hiệu và chỉ có một số người nào đó mới được sử dụng làm trạm thu một khi có khả năng phát lại tín hiệu thu được đó thành ngôn ngữ của cõi đời. Trạm thu phát tín hiệu Vũ Đình Ninh đã thu tín hiệu phát từ không gian trong hơn chín giờ và đã phát lại tín hiệu đó liên tục trong bốn mươi lăm ngày tạo thành tác phẩm "Tây Sơn ai tư vãn truyện".
"Tây Sơn ai tư vãn truyện" là một tác phẩm văn học nói về lịch sử triều đại Tây Sơn được diễn đạt bằng thơ lục bát, đã có những đoạn thơ hay, nhiều câu thơ hay. Nhưng vì dùng thơ để nói sử nên tính sử thi đã bao trùm lên toàn bộ tác phẩm. Điều đó thật đáng quý biết bao.
Qui Nhơn tháng 7/2009
T.H
T.H
Bài liên quan
Comments[ 0 ]
Đăng nhận xét